34. Chuyện người sửa đôi dép Bác Hồ
Mỗi người dân Việt Nam đã từng nghe, ngắm nhìn đôi dép cao su của Bác Hồ. Đôi dép cao su giản dị, "đôi hài vạn dặm" từng theo Bác cả cuộc đời, theo sát cuộc kháng chiến trường kỳ của cả dân tộc. Ông Đàm Cần, nguyên Phó phòng Phòng Tự vệ biển Hải Phòng kể lại lần mình được trực tiếp sửa đôi dép cao su của Bác Hồ với niềm tự hào và cảm xúc thật sâu sắc.
Ngày 12/3/1962, lúc đó tôi đang là Phân đội trưởng Phân đội 4, Đoàn 135 Hải quân. Trời mùa Xuân ấm áp, khoảng 10 giờ sáng, Bác đến đảo Vạn Hoa (Quảng Ninh) bằng máy bay trực thăng. Như mọi lần, Bác về không báo trước, chuyến đi đó có cả ông Nguyễn Lương Bằng, ông Lê Trọng Tấn. Lúc này, lãnh đạo đơn vị đã sang Hải Phòng họp hết. Được tin Bác đến, chiến sỹ ta xúm xít chạy tới đón Bác nhưng ngại nên cứ đứng ở xa. Thấy vậy, ông Lê Trọng Tấn bảo: "Các đồng chí cứ lại gần Bác cũng được". Thế là chẳng ai bảo ai, cả đội mấy chục người vây quanh, ai cũng muốn được gần Bác. Bác xuống thăm bếp ăn, hỏi chuyện chị nấu bếp tên Thắm, lấy chồng miền Nam tập kết ra Bắc. Chị Thắm thấy Bác đến, sợ Bác thấy tạp dề của mình bẩn, vội quay mặt tạp dề bẩn vào trong. Bác tinh lắm, thế mà Bác cũng phát hiện ra ngay, nhắc chị không cần phải làm thế.
Lúc đó, giữa vị lãnh tụ và chiến sỹ không hề có khoảng cách. Thấy các vị chỉ huy dễ tính, chiến sỹ ta "được thể" cứ bám theo từng bước Bác đi. Trong lúc các chiến sỹ tranh nhau gần Bác, một chiến sỹ, hình như là đồng chí Khởi, người Ninh Bình, lập cập thế nào giẫm ngay vào chân Bác, Bác suýt ngã.
- Chú nào làm dép của Bác đứt quai rồi - Bác trìu mến bảo.
Nói rồi, Bác tựa lưng vào tường nhà máy nổ, định kéo lại đôi dép.
Lúc đó, tôi cũng đang đứng bên Bác, nhanh nhảu:
- Thôi, Bác để cháu đổi cho Bác đôi giày.
Nói rồi, tôi cúi luôn xuống, cởi đôi giày của mình ra.
Bác nhỏ nhẹ nói:
- Không được.
Lúc đó, tôi mới được nhìn Bác. Tôi vẫn nhớ cảm giác lúc chạm vào chân Bác, đôi chân rất gầy, có thể biết rằng sức khỏe của Bác cũng yếu đi nhiều. Bác mặc bộ quần áo lụa Hà Đông mãu nâu sẫm đã cũ, nhiều chỗ vải đã nổ lấm tấm như bèo hoa dâu.
Một chiến sỹ đứng ngoài lại bảo:
- Thế chúng cháu đổi dép mới cho Bác nhé!
- Không được - Bác vẫn ân cần trước sự quan tâm của các chiến sỹ trẻ rồi vui vẻ bảo:
- Đôi dép của Bác vẫn còn dùng được, đôi dép này Bác đã đi khắp Việt Bắc rồi đấy. Đó là kỷ niệm của chiến trường.
Lúc đó tôi chợt ngắm kỹ đôi dép cao su của Bác. Đúng là tôi chưa thấy đôi dép nào như thế. Nó quá cũ, đế cao su làm bằng lốp ô tô đã mòn vẹt, lớp vải bố đã xơ hết. Còn những chiếc quai, chắc đã thay nhiều lần, một quai tuột hẳn ra. Tôi chợt nghĩ "hay là mình sửa dép cho Bác vậy". Nhưng sửa cũng khó chứ đâu dễ, phải có cái rút dép mới làm được, không cẩn thận lại đứt quai. Đang loay hoay, một chiến sỹ cùng đơn vị nhanh trí lấy được cái rút dép ở đâu đó, đưa cho tôi. Tôi cầm dép ngó nghiêng, luồn kẹp vào quai rút một cái là xong. Tôi nói với Bác:
- Dép xong rồi, Bác xỏ vào đi ạ!
Tôi đặt dép xống, Bác xỏ chân, tiếp tục đi thăm đơn vị, vẫn bình thản, nhẹ nhàng.
Đây là lần thứ tư tôi được trực tiếp nhìn thấy Bác Hồ và là lần tôi nhớ nhất hình ảnh của Bác. Bộ quần áo lụa cũ, đôi dép cao su trông thật giản dị nhưng trí tuệ của Bác thì thật tuyệt vời. Bác đi lại nhanh nhẹn, bước đi của Bác rất đặc biệt, dù bước đi rất dài nhưng khoan thai. Tiếng Bác trầm ấm nhưng rõ như tiếng chuông, ứng đối khéo và đầy trí tuệ. Trong lúc vui chuyện, tôi mạnh dạn hỏi Bác:
- Bác là Chủ tịch nước, Bác thiếu gì quần áo mà lại mặc bộ quần áo cũ thế này.
Bác bảo:
- Đây là quần áo của các cụ già tặng Bác nên Bác mặc làm kỷ niệm. Chứ quần áo thì Bác cũng có nhiều lắm.
Bữa ăn của Bác - vị Chủ tịch trên tàu Hải Lâm hôm đó cũng rất đơn giản.
Bác là Chủ tịch nước, thế mà Bác có xa cách gì đâu, cuộc sống riêng tư cũng như mọi người dân bình thường. Tôi nghĩ, người vĩ đại thật sự giản dị. Bác của chúng ta là như thế!
(Việt Anh, trích trong cuốn Phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014)
35. Người công giáo ghi ơn Bác Hồ
Ngày 12/6/1987, tại Hội thảo khoa học "Bác Hồ với Huế - Huế với Bác Hồ" do Thành ủy Huế tổ chức nhân dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày Bác Hồ về thăm Đồng Hới - Quảng Bình, lúc đó thuộc tỉnh Bình - Trị - Thiên, linh mục Nguyễn Văn Ngọc đã kể một kỷ niệm không bao giờ quên của đồng bào công giáo xứ Huế về đức bác ái bao la của Bác Hồ:
Năm 1949, Việt Minh bao vây kinh tế thành phố Huế. Linh mục Nguyễn Văn Ngọc, khi đó, đảm đương công việc ruộng đất của Nhà Chung tại giáo xứ Lương Văn, có trách nhiệm cung cấp lương thực để đài thọ cho 600 linh mục, chúng sinh dòng tu nam, nữ của thành phố. Trong điều kiện Huế bị bao vây, linh mục không có cách nào chở được số lúa gạo vào thành phố cho Nhà Chung ăn tiêu.
Linh mục rất lo lắng, đem chuyện này thưa lại với đồng chí Quế, lúc đó là cán bộ Việt Minh của mặt trận Thừa Thiên - Huế, vẫn có liên lạc với giáo xứ Lương Văn. Sau một hồi suy nghĩ, đồng chí Quế khuyên linh mục Ngọc nên viết thư xin phép Bác Hồ, đồng chí sẽ cố gắng tìm cách chuyển giúp.
Không còn cách nào khác, linh mục Ngọc đánh bạo viết thư lên Cụ Chủ tịch, thực lòng cũng không dám hy vọng sẽ đến được với Bác Hồ trong hoàn cảnh chiến tranh, Người lại ở quá xa và đang bận rộn trăm nghìn công việc lớn lao của đất nước.
Thật bất ngờ, một tháng sau, đồng chí Quế chuyển đến cho linh mục Ngọc một cái thiếp có chữ ký và dấu của Cụ Chủ tịch. Nội dung gồm hai điểm:
1. Cho phép linh mục Nguyễn Văn Ngọc được phép chở 9000 thúng lúa lên thành phố Huế trong vòng một tháng để trợ cấp cho Nhà Chung.
2. Linh mục Ngọc được tự do đi lại trong tỉnh Thừa Thiên để coi sóc ruộng đất của Nhà Chung, tiếp tục trồng cấy, không được để ruộng đất bỏ hoang.
Nhờ có giấy phép đặc biệt của Bác Hồ, linh mục Ngọc đã hoàn thành được nhiệm vụ, chở được lương thực lên thành phố, cứu nguy cho hơn 600 con người đang trong cảnh nguy ngập. Ai cũng mừng rỡ và hết lòng ca tụng Bác Hồ, vị Chủ tịch có lòng bác ái mênh mông của Chúa, tất cả vì lợi ích và cuộc sống của con người, không phân biệt lương hay giáo. Bác Hồ đúng là hiện thân của chính sách đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết tôn giáo.
Để kỷ niệm và ghi ơn Bác Hồ, vị giám mục người Pháp địa phận Huế đã gửi tấm thiếp của Người về Pari và hiện nay tấm thiếp đó vẫn đang được trang trọng lưu trữ tại Hội Thừa Sai Pari.
(Nguyễn Văn Ngọc kể, trích trong cuốn Bác Hồ - con người và phong cách)
36. Ai có trách nhiệm trồng người
Theo quy chế của Bộ Ngoại giao ta, khi có đoàn đại biểu trong nước đến nước nào thì vị đứng đầu Đại sứ quán Việt Nam tại nước đó phải đến sớm nhất để báo cáo với đoàn tình hình thế giới, trong nước, nước sở tại và kế hoạch làm việc hôm đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dậy đúng 5 giờ 30, tập thể dục 30 phút rồi tắm. Bác hẹn tôi đúng 6 giờ 15 phút đến báo cáo với Bác. Thật hạnh phúc cho tôi, suốt 8 ngày ở Cộng hòa Dân chủ Đức, ngày nào tôi cũng được làm việc với Bác vào 6 giờ 15 phút. Sáng 27-5, tôi vào đã thấy Bác ngồi chờ. Sau khi nghe tôi báo cáo thật tóm tắt, Bác đẩy bao thuốc lá sang phía tôi và hỏi:
- Cuộc hội đàm hôm qua chú thấy vấn đề gì bổ ích nhất cho ta?
- Thưa Bác, cháu cho rằng chiến lược trăm năm trồng người rất bổ ích cho ta.
- Chú nói đúng.
Tôi chưa dám hút thuốc lá.
Bác lấy thuốc đưa tôi, hỏi tiếp:
- Chú quê ở xã nào?
- Thưa Bác, nhà cháu cùng xóm với Cụ Phan Bội Châu, làng Đan Nhiễm, gần Kim Liên.
Bác tỏ thái độ rất vui, hỏi con cháu Cụ Phan ai còn ai mất, làm ăn ra sao. Sau đó, Bác nhìn tôi và hỏi:
- Ở cương vị chú, chú sẽ làm gì để góp sức với đất nước về sự nghiệp trồng người?
- Thưa Bác, ở bên này cháu cố gắng học hỏi kinh nghiệm và đi thực tế để xem các đồng chí làm như thế nào rồi thường xuyên báo cáo đầy đủ về Trung ương Đảng và Bộ Ngoại giao.
Nói xong, tôi tự nghĩ "chắc Bác bằng lòng". Không ngờ Bác nghiêm mặt:
- Chú cũng quan liêu giấy tờ đến thế?
Thấy tôi đỏ mặt cúi đầu, Bác hạ giọng:
- Bác và Trung ương giỏi lắm thì đánh xong giặc. Xây dựng con người là trách nhiệm nặng nề của thế hệ chú và con chú. Chú còn làm gì nữa?
- Thưa Bác, cháu chăm sóc 149 thiếu nhi đang học tại Cộng hòa Dân chủ Đức.
Nói xong tôi tưởng Bác hài lòng, vì Bác luôn hỏi về việc các cháu học tập, sức khỏe và đạo đức ra sao. Lần này Bác phê bình nhẹ nhàng:
- Cách làm của chú chưa đúng. Muốn đi xa, phải bắt đầu đặt chân gần nhất. Trước hết chú phải giáo dục con chú, anh chị em trong Đại sứ quán, các cháu sinh viên, từ đó cả tập thể cán bộ, nhân viên Đại sứ quán và sinh viên chăm lo cho các cháu thiếu nhi. Một mình chú dù giỏi cũng không làm tốt. Rèn luyện các cháu về đạo đức phong cách, lối sống của dân tộc ta không phải chỉ bằng lời, mà phải bằng hành động gương mẫu của tập thể người lớn ở bên này. Người lớn thiếu gương mẫu thì không ai theo.
(Song Tùng trích trong cuốn Bác Hồ sống mãi với chúng ta)
37. Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Tôi còn nhớ hồi ấy, Già Thu còn làm việc ở một hòn đá kê bên bờ suối ngay dưới hang. Nhưng khi trời chiều, ánh mặt trời bị bóng núi và những tán cây rậm rạp che khuất, đồng chí thường chuyển chỗ làm việc sang bên kia bờ suối cách cửa hầm mấy chục mét. Bàn làm việc là một phiên đá phẳng kê trên mấy hòn đá nữa cho với tầm ngồi, ghế cũng là một phiến đá nhỏ và nhẵn. "Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng". Chính nơi đây, Người đã dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô. Bàn đá kê ngay cạnh suối nên mỗi khi rỗi rãi sau những giờ làm vệc căng thẳng, Người thường ra suối vứt cơm thừa để câu cá. Người đặt tên cho con suối ấy là suối Lênin và ngọn núi cao đối diện, có vóc dáng sừng sững, là núi Các Mác.
Người sống rất giản dị và kham khổ. Nước lá ổi thay chè, cải soong là thức ăn chủ yếu. Ngày ấy đồng bào quanh vùng ăn độn bắp, mọi người trong cơ quan cũng ăn độn bắp. Riêng "Đồng chí già" tuổi cao, sức yếu, chúng tôi mua gạo nấu riêng cho Người ăn, nhưng Người không đồng ý. Có lần bắp non xay để lâu mới ăn đến, bị chua, chúng tôi lại đề nghị Người ăn cơm gạo không, Người vẫn không nghe. Suy nghĩ rất nhanh, Người hỏi bọn tôi:
- Có cách nào làm cho bắp non khỏi bị chua không?
Chúng tôi thưa:
- Nếu rang lên thì có thể ăn được, nhưng không ngon...
- Không ngon cũng được. Thế thì rang lên mà ăn, không nên bỏ phí. Một hạt bắp lúc này cũng quý. Về sau nên phơi khô, rồi hãy xay.
Từ đấy mỗi khi thu hoạch bắp về nhà chúng tôi thành lệ phơi khô rồi mới cho vào cối, do đó bắp để lâu vẫn ăn được. Câu thơ "cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng" chính là ra đời trong thời kỳ này, gian khổ nhưng đầy lạc quan.
Ở đâu, Người cũng luôn luôn tìm mọi cách tự cải thiện đời sống. Thời kỳ ở Pắc Bó không dài, nhưng một vườn rau quả nho nhỏ đã bén rễ, có cả cà chua và ớt (dân vùng chúng tôi trước đó chưa bao trồng ớt). Người còn cùng anh em trong cơ quan câu cá, mò ốc suối. Năm thỉnh mười thoảng, anh em mới ra chợ mua cua nấu bát canh rau ngót rừng, rau cải, hoặc mua một, hai cân thịt lợn, chỗ béo thì lạng riêng rán lấy mỡ ăn dần, còn chỗ nạc thì kho mặn, cô lại như mắm khô để dự trữ gọi là món ăn chiến lược".
(Dương Đại Lâm, trích trong cuốn Bác Hồ sống với mãi chúng ta)
38. Ba chiều trách nhiệm
Báo Cứu quốc số 69, ngày 17-10-1945 có đăng "Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng". Bác viết:
"Tôi vẫn biết trong các bạn có nhiều người làm theo đúng chương trình của Chính phủ, và rất được lòng nhân dân. Song cũng có nhiều người phạm những lầm lỗi rất nặng nề. Những lầm lỗi chính là:
1. Trái phép - những kẻ Việt gian phản quốc, chứng cớ rõ ràng thì phải trừng trị đã đành, không ai trách được, nhưng cũng có lúc vì tư thù, tư oán mà bắt bớ và tịch thu làm cho dân oán thán.
2. Cậy thế - cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng muốn sao được vậy, coi khinh dư luận không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân.
3. Hủ hóa - ăn uống cho ngon, mặt muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra?
Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức. Ông uỷ viên đi xe hơi, rồi bà uỷ viên, cho đến các cô các cậu uỷ viên, cũng dùng xe hơi của công. Thử hỏi những hao phí đó ai phải chịu?
4. Tư túng - kéo bè, kéo cánh, bà cô bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì để ra ngoài. Quên rằng việc là việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai.
5. Chia rẽ - bênh vực lớp này, chống lại lớp khác, không biết làm cho các từng lớp nhân thương lẫn chau, hoà thuận với nhau...
6. Kiêu ngạo - tưởng mình ở trong cơ quan chính phủ là thần thánh rồi. Coi khinh dân gian, nói phô, cử chỉ lúc nào cũng vác mặt "quan cách mạng" lên. Không biết rằng, thái độ kiêu ngạo đó sẽ làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của Chính phủ".
Bác cho rằng: "Những kẻ tham ô, lãng phí là quan liêu thì phá hoạt tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của Chính phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám". Mặt khác, Bác ân cần nhắc dạy chúng ta rằng: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến".
Đối với những cán bộ sai lầm, trong sách "Sửa đổi lối làm việc", Bác nêu "một không sợ", "hai sợ".
- Không sợ có sai lầm, khuyết điểm.
- Sợ thứ nhất "không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm...".
- Sợ thứ hai "và càng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm". "Trừ những người cố ý phá hoại, ngoài ra không ai cố ý sai lầm, sai lầm là vì không hiểu, không biết. Vì vậy, đối với cán bộ bị sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ muốn như thế... Sự sửa đổi khuyết điểm một phần cố nhiên là trách nhiệm của cán bộ đó. Nhưng một phần cũng là trách nhiệm của người lãnh đạo.
Sửa chữa sai lầm, cố nhiên dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng".
Trong công tác xét xử, Bác nhắc nhở "Không vì công mà quên lỗi - không vì lỗi mà quên công", thuyết phục giáo dục là hàng đầu, nhưng phải có kỷ luật rất nghiêm. Phải phân tích rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng". "Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm". "Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư, tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa, v.v.. Những thói xấu đó đã có từ lâu, nhất là trong 80 năm lô lệ. Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng.
Cũng như những người hàng ngày lội bùn, mà trên mình họ có hơi bùn, có vết bùn. Như thế thì có gì là kỳ quái?"
"Cũng như một nhà có rể khờ, dâu dại, không thể cấm họ gặp gỡ bà con. Đảng ta dù muốn giấu những người và những việc không tốt kia, cũng không thể giấu. Quần chúng luôn luôn liên lạc với Đảng ta... Họ chẳng những trông thấy những người tốt việc tốt, mà họ cũng trông thấy nhóm người xấu, việc xấu trong Đảng. Họ sẽ ngơ ngác mà hỏi "Đảng này là Đảng tốt, đảng viên đều là người tốt, vì sao lại có những người vu vơ, những việc mờ tối như thế nhỉ?".
Bốn hai năm đã qua, ngày nay, đọc lại những lời dạy bảo chí tình, chí nghĩa, tri ân ấy của Bác mà chúng ta giật mình thấy nhức nhối trong tim.
(Trích trong cuốn Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Tâm Trang (tổng hợp)