Hệ thống Trợ năng

Chỉ mục bài viết

Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta, biết bao sự tích anh hùng, bao điều kỳ tích trở thành huyền thoại, đã được sử sách khắc ghi. Và, trong thời đại Hồ Chí Minh, những sự tích, những huyền thoại ấy càng được thể hiện rõ nét và sâu đậm hơn bao giờ hết; làm nên những bản anh hùng ca bất hủ, khiến mỗi chúng ta mãi mãi tự hào; còn kẻ thù thì khiếp sợ, kinh hoàng.

ht TNXP anh 1

Cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược suốt 3 thập kỷ trong thế kỷ XX là một trong những trang sử chói ngời nhất về chủ nghĩa anh hùng, về ý chí và tinh thần bất khuất, ngoan cường của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu. Sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc đã làm nên những chiến công mang tầm thời đại… Đóng góp xứng đáng vào chiến công vĩ đại ấy của dân tộc có lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam – lực lượng xung kích của các thế hệ thanh niên với phẩm chất cao đẹp, không ngại gian khổ sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Lực lượng Thanh niên xung phong luôn có mặt ở những nơi chiến tranh ác liệt nhất, gian khổ nhất để phục vụ chiến đấu và đảm bảo cho mạch máu giao thông không ngừng chảy bất chấp bom đạn vô cùng ác liệt của kẻ thù. Từ chiến dịch Biên giới Cao – Bắc Lạng (1950) khi lực lượng Thanh niên xung phong vừa mới ra đời, cho tới Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) và sau này là các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước… Dù ở đâu, trên bất cứ mặt trận nào Thanh niên xung phong cũng tỏ rõ tính xung kích và ý chí kiên cường chủ động, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Lịch sử hào hùng của dân tộc ta trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược mãi mãi ghi dấu về lực lượng Thanh niên xung phong anh hùng, về những đơn vị, những con người, những cung đường, những trọng điểm… thấm đẫm máu đào của họ. Biết bao cô gái, chàng trai đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp vĩ đại: Sự nghiệp chiến đấu giải phóng dân tộc; lập nên những kỳ tích anh hùng, dệt nên những huyền thoại, tô đậm trang sử vẻ vang và xứng đáng là biểu tượng rực rỡ về Chủ nghĩa Anh hùng Cách mạng của phong trào thanh niên yêu nước Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh quang vinh.

Chính từ những ý nghĩa cao đẹp ấy và nhằm giáo dục truyền thống lịch sử cho thế hệ trẻ hôm nay, Ban biên tập Dự án xuất bản Uống nước nhớ nguồn – Trung tâm Thông tin Truyền thông Vì môi trường phát triển phối hợp với Trung ương Hội Cựu Thanh niên xung phong Việt Nam xuât bản cuốn sách Huyền thoại Thanh niên Xung phong Việt Nam.

 Đây là một công trình xuất bản lớn, một tượng đài bằng chữ về lực lượng Thanh niên xung phong; cuốn sách tái hiện sinh động những năm tháng phục vụ chiến đấu và chiến đấu đầy gian khổ hy sinh nhưng cũng vô cùng anh dũng với những chiến công đã trở thành huyền thoại của Thanh niên xung phong. Qua đó, thêm một lần nữa ghi nhận công lao to lớn của những con người đã một thời cống hiến, hy sinh cho dân tộc. Dù hôm nay họ là ai, làm gì, ở đâu, còn hay mất… thì cùng với lực lượng Thanh niên xung phong anh hùng, họ vẫn mãi mãi là những chứng nhân lịch sử, xứng đáng được tôn vinh và ghi nhớ

Cuốn sách Huyền thoại Thanh niên Xung phong Việt Nam được xuất bản như một bó hoa tươi thắm dâng lên các Anh hùng, liệt sĩ và những con người trung dũng của lực lượng Thanh niên xung phong - Bó hoa Đền ơn đáp nghĩa ấy mãi mãi ngát hương trong sự nghiệp dựng xây đất nước.

Sau đây Ban Biên tập Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh xin giới thiệu cùng bạn đọc Cuốn sách Huyền thoại Thanh niên Xung phong Việt Nam (Theo Tạp chí Trí thức và Phát triển - Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, Bộ Sách điện tử Huyền thoại Đường 9 - Khe Sanh Anh hùng – Trang http://uongnuocnhonguon.vn).

Thanh niên xung phong những dấu mốc quan trọng

ht TNXP anh 1
Lực lượng Thanh niên Xung phong siết chặt đội ngũ sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ, góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước Ảnh: T.L

Sinh ra trong khói lửa chiến tranh với những nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang do Đảng và Bác Hồ giao phó, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, lực lượng Thanh niên xung phong (TNXP) luôn tỏ rõ vai trò xung kích và khí phách anh hùng trong phục vụ chiến đấu và chiến đấu. Những dấu mốc quan trọng và những thành tích xuất sắc của lực lượng TNXP đã góp phần xứng đáng vào chiến thắng hào hùng của cả dân tộc. Đó cũng chính là hành trình lịch sử vẻ vang rất đỗi tự hào của lực lượng TNXP Việt Nam.

Thanh niên xung phong những chặng đường lịch sử

Đội thanh niên xung phong công tác Trung ương

Năm 1950, cục diện chiến tranh trên chiến trường Đông Dương có những thay đổi cơ bản. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, từ đầu năm 1950, Trung ương Đảng đã chỉ thị cho Liên khu ủy Việt – Bắc “chuẩn bị chiến trường Đông Bắc cho thật đầy đủ để khi có điều kiện sẽ mở một chiến dịch lớn, quét địch ra khỏi đường số 4, đánh bại quân địch trong vùng Đông Bắc”.

Tháng 5-1950, Trung ương lại chỉ thị cho Liên khu ủy Việt Bắc “về việc sửa đường và vận tải” và nhắc “các cấp Đảng bộ phải cử một số cán bộ có năng lực phụ trách các công trường, chọn những đoàn viên hăng hái, khỏe mạnh, tổ chức thành “những đội xung phong công tác làm động cơ thúc đẩy nhân dân”.

Ngày 15-7-1950, thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, Đảng Đoàn thanh vận Trung ương quyết định thành lập Đội TNXP công tác Trung ương đầu tiên để phục vụ Chiến dịch Biên Giới. Ban Chỉ huy lâm thời của Đội gồm 5 đồng chí, do đồng chí Vương Bích Vượng, Ủy viên Ban chấp hành Đoàn Thanh niên Cứu quốc làm Đội trưởng và Bí thư chi bộ.

Đội TNXP công tác Trung ương đầu tiên gồm 225 đội viên, được tổ chức  thành ba liên phân đội, dưới liên phân đội có các phân đội. Toàn đội có 73 đảng viên trẻ và hầu hết là đoàn viên thanh niên Cứu quốc, tuổi từ 18 đến 25. Thời gian phục vụ của đội viên là 6 tháng và được hưởng chế độ cung cấp như bộ đội địa phương.

Đội TNXP công tác Trung ương đầu tiên hoạt động cho tới tháng 01/1952 thì giải thể sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và hết thời gian phục vụ. Phần lớn đội viên trở về địa phương công tác và sản xuất. Một số cán bộ, đội viên tình nguyện về nhận nhiệm vụ ở Đội TN XP công tác thứ hai.

Đội TNXP công tác thứ hai được thành lập tháng 10/1950 để đáp ứng yêu cầu mở các chiến dịch. Đội gồm 1.737 đội viên, tổ chức thành 8 liên phân đội. Ngày 22-12-1950 Đội được lệnh đi phục vụ chiến dịch Trung du. Các liên phân đội đã bám sát từng bước tiến của bộ đội để tiếp tế đạn dược, kịp thời phục vụ chiến đấu và đưa thương binh về tuyến sau an toàn. Trên các mặt trận Vĩnh Yên, Núi Danh, Tam Nông (Vĩnh Phú), Bình Liêu, Bến Tam (Quảng Ninh), các đội viên TN XP đã nêu những tấm gương dũng cảm và tận tụy chăm sóc thương binh. Với những thành tích phục vụ chiến dịch, Liên phân đội I được tặng Huân chương Chiến sỹ hạng Ba.

Chỉ sau một thời gian ngắn, Đội TNXP công tác phát triển lên 3.000 đội viên và bắt đầu nhận nữ thanh niên.

Tháng 3-1951, Đội TNXP công tác Trung ương được bổ sung thêm 9 liên phân đội mới. Đó là các liên phân đội: Hoàng Hoa Thám, Hoàng Hữu Nam, Hồ Tùng Mậu, Trần Phú, Tô Hiệu, Hà Huy Tập, Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Lê Hồng Phong…

Đội Thanh niên xung phong

Đầu năm 1953, sau khi nhận xét về một số nhược điểm của các Đội TNXP công tác Trung ương, Bác Hồ đã giao cho đồng chí Vũ Kỳ tổ chức thí nghiệm một Đội TNXP khác để làm kiểu mẫu. Phương châm tổ chức Đội TNXP mới này là:

Tổ chức 1 đội 1.000 thanh niên chỉ có 5% là cán bộ để gọn, nhẹ, ít người chỉ huy. Điều kiện gia nhập: Lấy tự nguyện, đi đến kháng chiến thành công, xung phong bất cứ công tác gì… Thành phần là bần, cố nông, không có phụ nữ.

Phải học tập chính trị, văn hóa, chuyên môn và luyện tập quân sự.

Sinh hoạt: Ưu đãi như bộ đội chủ lực, do Tổng cục cung cấp cấp phát và trang bị dụng cụ, vũ khí.

Ngày 26-3-1953, Đại đội 261, đơn vị đầu tiên của Đội thanh niên xung phong được thành lập. Đến tháng 7-1953, Đội có 850 đội viên do đồng chí Vũ Kỳ làm Đội trưởng. Đội chia làm 4 trung đội, mỗi trung đội có 5 tiểu đội. Đội làm công tác phục vụ giao thông và xây dựng kho tàng ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Tuyên Quang và một trung đội phục vụ an toàn khu (ATK).

Đoàn TNXP Trung ương

Ngày 19 và 20-9-1953 đồng chí Vũ Kỳ báo cáo với Bác về việc mở rộng đội ngũ TNXP, Bác chỉ thị phải tuyển thêm 9.000 đội viên để phát triển Đoàn TNXP lên đủ 1 vạn người.

Theo Bác, cần xuống thẳng xã để tuyển. Tổ chức cho thanh niên học tập điều kiện đi TN XP. Xã bình nghị những người được đi làm nhằm cho thanh niên thấy vinh dự khi được đi TNXP. Mặt khác thông qua đoàn ủy, phái đoàn phát động quần chúng báo cáo rõ mục đích, xin chỉ thị, để được sự giúp đỡ.

Đoàn TNXP Trung ương cần có cán bộ, thầy thuốc, quân sự, chính trị, văn hóa, cung cấp, kỹ thuật (chưa cần kỹ sư, nhưng cần có những người am hiểu công việc), đảm bảo đủ cho 1 vạn TNXP hoạt động có hiệu quả.

- Về nội quy, không cần nêu rõ làm công việc gì. Hướng là làm bất kỳ mọi việc khó dễ.

ht TNXP anh 3
Đ/c Vũ Kỳ báo cáo với Bác về công tác của đoàn TNXP (1953) Ảnh: T.L

- Nghiên cứu việc cho chi bộ Đảng ra công khai.

- Về công việc chuyên môn, kê khai số dụng cụ cần thiết, Bác sẽ chỉ thị cung cấp.

- Cho một số đi học y tá.

Nhiệm vụ chủ yếu của Đoàn TNXP là: Xung phong mọi việc, bất kỳ việc khó việc dễ, phục vụ kháng chiến cho đến ngày kháng chiến thành công. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang của thanh niên chúng ta.

Điều lệ của Đoàn TNXP có 6 phần. Điều lệ quy định rõ tên gọi và nhiệm vụ của Đoàn, nhiệm vụ của mỗi đội viên, quy định về công tác tổ chức, công tác lãnh đạo và giáo dục của Đoàn.

Đội TNXP xây dựng CNXH

Miền Bắc hoàn toàn giải phóng. Nhưng hậu quả hơn 80 năm thống trị của thực dân Pháp và 9 năm kháng chiến trường kỳ thật nặng nề.

Trước tình hình đó Đoàn TNXP được giao làm các nhiệm vụ:

- Tham gia tiếp quản các thành phố Hà Nội, Hải Phòng.

- Thu dọn chiến trường ở Điện Biên Phủ.

- Tham gia hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội.

Đoàn TNXP tiếp tục chuyển một số cán bộ, đội viên sang làm nhiệm vụ trong ngành giao thông công chính, bưu điện, công an, thương nghiệp… đồng thời Đoàn TNXP được bổ sung:

- Một số đội TNXP ở Liên khu V tập kết ra Bắc và những thanh niên ở Nam Bộ vượt tuyến ra tham gia xây dựng đất nước.

- 1.000 sinh viên đại học ở các thành phố tình nguyện gia nhập TNXP.

- Các tỉnh tiến hành tuyển bổ sung, chủ yếu để tham gia xây dựng đường sắt theo chủ trương của Trung ương Đoàn.

Đến tháng 1-1954 quân số Đoàn TNXP lên tới 10.970 người. Bước sang năm 1958, miền Bắc nước ta đi vào thời kỳ cải tạo và phát triển kinh tế xã hội. Nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng được tập trung đầu tư lớn, tăng gấp 2,2 lần so với thời kỳ 1955-1957.

Nhiều công trình trọng điểm được khởi công xây dựng. Đất nước cần nhiều lực lượng lao động trẻ, khỏe, có tinh thần năng động, sáng tạo, dám đương đầu với mọi gian khổ, thử thách.

Tháng 2-1959, Trung ương Đoàn TNLĐ Việt Nam được giao nhiệm vụ tổ chức Đội TNXP xây dựng XHCN. “Đội có nhiệm vụ động viên, tổ chức, giáo dục đoàn viên và thanh niên trong đội phát huy truyền thống của Đoàn TNXP trong kháng chiến, khắc phục vượt mọi khó khăn để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch của Trung ương giao cho về số lượng, chất lượng và thời gian. Qua thực tế đấu tranh và tôi luyện trong lao động, đội có nhiệm vụ tổ chức giáo dục, nâng cao trình độ tư tưởng chính trị, văn hóa, nghiệp vụ cho mỗi đoàn viên, thanh niên, chuẩn bị cho những nhiệm vụ về sau.

Đội lại có nhiệm vụ tổ chức, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho anh chị em”.

Đội TNXP chống Mỹ cứu nước

Ngày 5-8-1964, sau khi dựng lên sự kiện vịnh Bắc Bộ, Mỹ đưa không quân ra đánh phá miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân chống phá miền Bắc XHCN với qui mô ngày càng lớn.

Bộ Chính trị và BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (ngày nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) trong hội nghị lần thứ 11 (họp tháng 3- 1965) và lần thứ 12 (họp tháng 12-1965) thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn dân, đã nêu cao quyết tâm động viên mọi lực lượng kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trong nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

ht TNXP anh 4
TNXP hành quân vào Trường Sơn Ảnh: T.L

ht TNXP anh 5
Đ/c Tố Hữu - Bí thư Trung ương Đảng (Người thứ nhất, bên phải) và đ/c Nguyễn Văn Đệ -
Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên (người thứ hai, từ trái sang) đến thăm một đơn vị TNXP chống Mỹ cứu nước ở Hà Tĩnh (1968) Ảnh: T.L

Để đáp ứng kịp thời những yêu cầu lớn phục vụ tiền tuyến của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngày 21-6-1965 Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị thành lập Đội TNXP chống Mỹ cứu nước (tập trung).

Theo đó, “Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước là một lực lượng lao động đặc biệt quân sự hóa của thanh niên, có vũ trang, được tổ chức và xây dựng trên ba mặt: Sản xuất, chiến đấu, học tập”.

Đối tượng tuyển TNXP chống Mỹ, cứu nước là các nam, nữ thanh niên thành thị và nông thôn tuổi từ 17 đến 30 có tinh thần yêu nước, có sức khỏe và tự nguyện gia nhập Đội.

Thành phần của Đội phải có từ 5-10 người là đảng viên, từ 30%-35% là đoàn viên thanh niên lao động, từ 30%-40% là nữ.

Đội có huy hiệu và phù hiệu riêng.

Thời gian phục vụ của đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước là ba năm.

Đội TN XP chống Mỹ, cứu nước đầu tiên được thành lập ngày 25-5-1965 gồm l.200 đội viên của tỉnh Thanh Hóa, về sau được mang phiên hiệu Đội 21.

Trong 3 nhiệm kỳ từ 1965-1975 đã có 133.157 đoàn viên thanh niên gia nhập lực lượng TN XP chống Mỹ, cứu nước, trong đó 51,8% là nữ.

TN XP đảm nhận nhiều loại công việc khác nhau, nhưng chủ yếu ở 3 ngành: Giao thông vận tải, Lâm nghiệp và Quốc phòng.

Cũng trong 3 nhiệm kỳ, TN XP đã làm 2.195 km đường mới trên 53 tuyến đường.

Đảm bảo giao thông ngày đêm trên 3.000 km đường, trong đó có 2.526 trọng điểm địch thường xuyên đánh phá ác liệt. TN XP cùng quân đội tham gia xây dựng 6 sân bay quân sự dã chiến; Rà phá trên một vạn quả bom, mìn; Bắn rơi 15 máy bay, bắt sống 13 giặc lái, 6 biệt kích, thám báo.

Đã có 1710 đội viên sau khi hoàn thành nhiệm vụ 3 năm được vào học các trường đại học; 833 người được đi học ở nước ngoài; 12.345 người được vào học các trường trung học chuyên nghiệp; 8.042 người đi học ở các trường đào tạo công nhân kỹ thuật; 15.072 người chuyển sang công tác ở các cơ quan, xí nghiệp...; 15.722 người chuyển vào quân đội.

* Các nhiệm kỳ TN XP chống Mỹ, cứu nước:

- Nhiệm kỳ I: 5/1965 - giữa năm 1968: Đã huy động 54.122 người (nữ chiếm tỷ lệ 44%) ở 18 tỉnh, thành phố miền Bắc. Lúc cao điểm lên tới 7 vạn người.

- Nhiệm kỳ II: Từ giữa 1968 đến đầu năm 1972: Huy động 17.377 người (nữ chiếm 64%) ở 15 tỉnh, thành miền Bắc.

- Nhiệm kỳ III: Từ 1972 - 1975: Huy động 34.058 người (nữ chiếm tỷ lệ 52,9%) ở 18 tỉnh, thành miền Bắc.

Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam

Năm 1965, sau khi bị thất bại trong chiến tranh đặc biệt, chính quyền Mỹ liều lĩnh tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam. Hội nghị BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI (khóa III ) tháng 3-1965 đã quyết định chuẩn bị mọi mặt để đối phó với tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức mới và mức độ cao hơn.

Hội nghị lần thứ ba của TƯ cục miền Nam đề ra nhiệm vụ lợi dụng tình thế thất bại, lúng túng và suy yếu nhanh chóng của địch để tập trung lực lượng, tranh thủ thời gian, kiên quyết đánh địch, gấp rút xây dựng lực lượng cách mạng để nhanh chóng thay đổi tương quan lực lượng có lợi hẳn cho ta, làm cơ sở để xốc tới giành thắng lợi to lớn hơn. Tháng ba năm 1965, Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng, đội tiên phong chiến đấu của tuổi trẻ miền Nam trong những năm đánh Mỹ họp Đại hội lần thứ nhất nêu quyết tâm động viên rộng rãi tuổi trẻ miền Nam đoàn kết một lòng “đánh giặc, sản xuất, xây dựng đời sống mới ở vùng giải phóng. Đoàn kết và tổ chức lực lượng thanh niên học tập, rèn luyện phấn đấu trở thành lực lượng hậu bị của Đảng”. Để đẩy tới cao trào hành động cách mạng rộng khắp, Đại hội quyết định phát động phong trào “Năm xung phong” trong toàn thể đoàn viên, thanh niên miền Nam.

1. Xung phong tiêu diệt nhiều sinh lực địch.

2. Xung phong tòng quân và tham gia du kích chiến tranh.

3. Xung phong đấu tranh chính trị và chống bắt lính.

4. Xung phong đi dân công và thanh niên xung phong, phục vụ tiền tuyến.

5. Xung phong sản xuất nông nghiệp trong nông thôn.

Và Đại hội quyết định thành lập lực lượng TNXP ở miền Nam. Nghị quyết Đại hội nêu rõ: “... để đảm bảo phục vụ đắc lực các đợt hoạt động quân sự, các trận đánh lớn: Để giáo dục đoàn viên và thanh niên trong thực tế chiến đấu với giặc, Đoàn trực tiếp tổ chức các đội TNXP công tác phục vụ chiến trường trước hết là ở xã và tổ chức các Đội TNXP thoát ly có thời hạn và không có thời hạn từ quận trở lên khi có yêu cầu của Hội đồng cung cấp tiền tuyến cấp đó...”.

ht TNXP anh 6
Giặc phá ta lại sửa ta đi” - TNXP chống Mỹ cứu nước đang làm nhiệm vụ thông đường Ảnh: T.L

- Các hình thức tổ chức

Lực lượng TN XP giải phóng có 3 hình thức tổ chức:

- Lực lượng TN XP giải phóng tập trung của miền không qui định thời gian nghĩa vụ.

- Lực lượng TN XP giải phóng của địa phương chỉ tập trung theo thời hạn 3 tháng, 6 tháng... khi cần thiết.

- Lực lượng TN XP ở cơ sở.

Đối với lực lượng TNXP giải phóng của miền, đơn vị bộ đội nào sử dụng, đơn vị đó trang cấp và lo hậu cần cho TNXP như quân giải phóng.

Đoàn TNNDCM thành lập một cơ quan Tổng đội, để lo chung công tác tuyển chọn cán bộ, đội viên, kiểm tra, theo dõi, tổng kết đánh giá.

- Nhiệm vụ của TN XP giải phóng miền Nam:

Vận chuyển vũ khí lương thực phục vụ bộ đội chiến đấu

Cáng tải và chăm sóc thương binh.

Đào hầm, làm nhà, làm kho, làm đường sá.

Trực tiếp tham gia chiến đấu.

(Theo tư liệu của Trung ương Hội Cựu TNXP Việt Nam cung cấp)

Chủ trương và sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ
đối với lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Ban Bí thư TƯ Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đã chủ trương thành lập lực lượng TN XP chống Mỹ cứu nước (tập trung) để đối phó có hiệu quả với cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.

Chỉ thị 105 CT /TW ngày 29-7-1965 của Ban Bí thư TƯ Đảng về việc tăng cường lãnh đạo công tác vận động thanh niên trong tình hình mới có đoạn nói về TNXP:

“Để phát huy truyền thống của các Đội TNXP trong thời kỳ kháng chiến và để kịp thời đáp ứng với nhiệt tình của thanh niên đang sôi nổi thực hiện “Ba sẵn sàng”, cần tổ chức các Đội TNXP chống Mỹ cứu nước nhằm phục vụ cho chiến đấu và xây dựng. Mỗi Đội TNXP phải là một đơn vị sẵn sàng chiến đấu khi cần thiết và đồng thời là một trường học văn hóa kỹ thuật, nơi đào tạo và rèn luyện thanh niên về mọi mặt. Các đội viên TNXP sẽ hưởng chế độ cung cấp trong thời gian phục vụ (thoát ly khỏi địa phương), Chính phủ sẽ ban hành những quy định và chế độ cần thiết cho các Đội TNXP”.

Ngày 21-6-1965, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 71/TTg về việc “Tổ chức các Đội TNXP chống Mỹ cứu nước phục vụ công tác GTVT”.

Chỉ thị có đoạn: “Trước những thất bại liên tiếp trong cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đế quốc Mỹ đang tăng cường và mở rộng từng bước cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, trước hết là phá hoại đường giao thông, các doanh trại bộ đội, các khu vực kinh tế nhằm gây cho ta những khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng. Trong tình hình đó, việc đảm bảo công tác GTVT không bị gián đoạn là một nhiệm vụ vô cùng trọng yếu đối với hoạt động sản xuất của các ngành, các địa phương và việc tăng cường khả năng quốc phòng. Thực hiện nhiệm vụ này cần phải có một đội ngũ lao động trẻ, có giác ngộ chính trị, có tổ chức kỷ luật chặt chẽ và có tinh thần dũng cảm trong sản xuất, trong chiến đấu với địch, bảo vệ giao thông, phục vụ cho được các nhu cầu cấp bách về vận chuyển tiếp tế.

ht TNXP anh 7
Bác Hồ tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III (22 - 25/3/1961) Ảnh: T.L

Để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng của thanh niên trong việc đảm đương các nhiệm vụ khó khăn nhưng vẻ vang đó, TƯ Đảng và Hội đồng Chính phủ đã quyết định giao cho TƯ Đoàn TNLĐ tổ chức các Đội “TNXP chống Mỹ cứu nước” làm nhiệm vụ đảm bảo các công việc về GTVT trên các tuyến đường trọng yếu”.

Chỉ thị 71 cũng chỉ rõ 6 nhiệm vụ của các “Đội TN XP chống Mỹ cứu nước (tập trung)” là:

- Xây dựng các công trình cấp thiết về quốc phòng và kinh tế.

- Xây dựng và sửa chữa các cầu đường bị địch phá hoại, bằng mọi cách khôi phục nhanh chóng giao thông, bảo đảm cho việc vận chuyển thông suốt liên tục.

- Bốc xếp, chuyển tải và vận chuyển hàng hóa ở các đường khó khăn.

- Cứu chữa hàng hóa và các phương tiện vận tải trong các trường hợp bị địch bắn phá.

- Chiến đấu chống sự phá hoại của địch để bảo vệ đường, phà, cầu và các phương tiện GTVT khi cần thiết.

- Bổ sung cho quân đội trong trường hợp cần thiết.

Chỉ thị 71 của Thủ tướng Chính phủ đã thể hiện rất rõ những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác vận động thanh niên là:

1- Xuất phát từ yêu cầu khẩn trương của sự nghiệp cách mạng chống Mỹ cứu nước, nhằm đối phó với âm mưu, hành động thâm độc dã man của đế quốc Mỹ, Đảng và Chính phủ ta đã có quan điểm đúng đắn trong việc đánh giá vai trò của lực lượng thanh niên, nên đã giao cho Đoàn TNLĐ Việt Nam tổ chức các Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước, đảm nhận các yêu cầu nhiệm vụ khó khăn gian khổ cấp bách, đảm bảo công tác GTVT trên các tuyến đường chiến lược trọng yếu.

2- Qua chế độ chung và chính sách toàn diện như đã trích dẫn, thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Chính phủ và Bác Hồ là sử dụng khả năng vai trò xung kích cách mạng của thanh niên đi đôi với nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo thanh niên; sử dụng khả năng phục vụ nhiệm vụ cách mạng trước mắt gắn với việc chuẩn bị, bồi dưỡng, đào tạo gánh vác nhiệm vụ cách mạng trong tương lai.Sau khi Chỉ thị 71 ban hành, tất cả các Bộ, các ngành có chức năng nhiệm vụ liên quan đến TNXP đều lần lượt ban hành các chỉ thị, thông tư, công văn hướng dẫn cụ thể.

Sự lãnh đạo kiểm tra và quản lý của Chính phủ đối với lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước (tập trung) còn thể hiện ở chỗ:

Thủ tướng Chính phủ ban hành các chủ trương, chính sách về tổ chức, chế độ đối với TNXP chống Mỹ cứu nước.

Kiểm tra các ngành, các cấp có trách nhiệm đối với TNXP, phát hiện kịp thời các khuyết, nhược điểm để ra chủ trương bổ khuyết.

Sau một năm thực hiện Chỉ thị 71, ngày 4-5-1966 Thường vụ Hội đồng Chính phủ đã họp, nghe đồng chí Nguyễn Văn Đệ, Bí thư TƯ Đoàn kiêm Trưởng ban Chỉ đạo TNXP TƯ và đồng chí Nguyễn Hữu Mai, Thứ trưởng thường trực Bộ GTVT báo cáo tình hình hoạt động của TNXP chống Mỹ cứu nước(1). Hội nghị đánh giá cao tinh thần hy sinh dũng cảm, khắc phục khó khăn của TNXP trong lao động, chiến đấu, học tập, bảo vệ mạch máu GTVT , góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Đồng thời Hội nghị cũng nêu bật các khuyết nhược điểm cần khắc phục trong tổ chức, chỉ đạo cũng như việc tổ chức thực hiện chế độ chính sách đối với TNXP.

Ngày 6-7-1966, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 121/TT nêu bật một số vấn đề quan trọng về tổ chức hoạt động và chế độ chính sách cần kịp thời bổ khuyết, thực hiện đối với tổ chức TNXP.

Cuộc họp kiểm tra của Thường vụ Hội đồng Chính phủ và Quyết định 121 ngày 6-7-1966 của Thủ tướng Chính phủ ban hành đã tạo bước ngoặt và có ý nghĩa lịch sử quan trọng.

Nội dung chủ yếu của Quyết định 121 gồm 5 vấn đề cơ bản sau đây:

* Sau khi lực lượng TNXP được thành lập và đi vào thực hiện các nhiệm vụ lao động sản xuất, tổ chức học tập bổ túc văn hóa và luyện tập quân sự, xây dựng nếp sống mới, nhiều đơn vị TNXP nhất là các đơn vị ở những địa bàn chiến đấu ác liệt đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhiệm vụ lao động sản xuất với nhiệm vụ học tập văn hóa.

Thông thường ở những vùng địch đánh phá ác liệt, khi địch đánh xong, cầu đường hỏng là lực lượng TNXP phải ra ngay hiện trường ứng cứu nhằm đảm bảo mạch máu giao thông thông suốt, vận tải liên tục. TNXP đang lên lớp học tập mà phải dừng lại để ra hiện trường, cán bộ lãnh đạo và giáo viên lo không đảm bảo chương trình, nên chủ trương học xong mới cho đi, do đó đã gây ảnh hưởng đến nhiệm vụ đảm bảo giao thông.

Từ đó mâu thuẫn giữa cán bộ TNXP với Ban chỉ huy công trường xuất hiện. Để chấm dứt tình trạng đó, Quyết định 121 của Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh: Đội TNXP chống Mỹ cứu nước là một tổ chức lao động đặc biệt, có 3 nhiệm vụ: Vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa học tập. Trong 3 nhiệm vụ ấy thì “sản xuất là nhiệm vụ trung tâm” phải được ưu tiên số một, nhất là ở những nơi địch đánh phá ác liệt. Hỏng cầu, hỏng đường, bất kể ngày đêm, giờ giấc, TN XP phải tổ chức lực lượng ra ngay hiện trường ứng cứu. Còn học tập sẽ được bố trí học bù sau.

* Về quản lý và sử dụng TNXP cũng xuất hiện những nhận thức lệch lạc. Đoàn và Đội TN XP thì coi các Đội TNXP do Đoàn thành lập ra là của Đoàn, do Đoàn chỉ đạo. Còn cán bộ của ngành chủ quản (bao gồm cả ngành GTVT , Quốc phòng và Lâm nghiệp) lại coi TNXP là lực lượng lao động của mình, do mình quản lý nên có quyền điều động phân công sử dụng, kể cả điều động, sử dụng làm những công việc phục vụ cơ quan không đúng với vai trò của TNXP.

Quyết định 121 đã nói rõ: Lực lượng TNXP giao cho ngành nào sử dụng thì thuộc chỉ tiêu lao động của ngành đó. Ngành chủ quản được sử dụng TNXP nhưng phải cùng với TƯ Đoàn TNLĐ Việt Nam chịu trách nhiệm về mặt tổ chức, quản lý theo đúng chính sách Nhà nước quy định.

* Về tổ chức lãnh đạo lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước phải theo đúng nguyên tắc quản lý xí nghiệp XHCN . Thủ trưởng phụ trách dưới sự lãnh đạo tập thể của Đảng ủy, công nhân tham gia quản lý. Đây là vấn đề hết sức quan trọng và phức tạp, đòi hỏi phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc quản lý.

Sau Quyết định 121, TƯ Đoàn đã cử một tổ cán bộ đại diện biệt phái công tác bên cạnh Bộ Tư lệnh Đoàn 559 để giúp cán bộ quân đội, các binh trạm sử dụng TNXP quán triệt ý kiến của Thủ tướng Chính phủ, mặt khác phổ biến giáo dục để cán bộ Đoàn, cán bộ Đội TNXP và đội viên chấp hành quyết định của Thủ tướng và hướng dẫn của TƯ Đoàn.

* Để phát huy vai trò chủ động sáng tạo của thanh niên và giải quyết dần những mâu thuẫn nói trên, Quyết định 121 phân tích đặc điểm của công tác GTVT có 2 nhiệm vụ song song: Vừa xây dựng cơ bản làm đường mới, vừa đảm bảo giao thông các tuyến đường chiến lược bị địch đánh phá.

Về việc thực hiện các chế độ chính sách và chăm lo đời sống của TNXP, các Bộ, các ngành, các địa phương đã cố gắng làm tốt các chế độ chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để các Đội TNXP lập được những thành tích to lớn, góp phần bảo đảm GTVT thời chiến và phục vụ nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu. Nhưng về mặt quản lý sử dụng thì các Bộ, các ngành chủ quản, các cấp và các cơ quan có liên quan còn có nhiều thiết sót như: Việc tổ chức sử dụng TNXP, chưa thật hợp lý; Việc cung cấp dụng cụ sản xuất và chuẩn bị kế hoạch sản xuất không kịp thời đã gây nhiều lãng phí.

ht TNXP anh 8
Đ/c Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành TƯ Đảng, đ/c Phan Trọng Tuệ - Bộ trưởng
Bộ GTVT, Bí thư Đảng bộ ngành GTVT tại Đại hội Ba sẵn sàng của TN và TNXP đạt danh hiệu Dũng sĩ GTVT thắng Mỹ (19/5/1968) Ảnh: T.L
ht TNXP anh 9
Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm và động viên bộ đội và TNXP tại tuyến lửa Trường Sơn
Ảnh: T.L

Từ những nhược điểm trên, Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh: “Cần thực hiện nghiêm chỉnh mọi chế độ chính sách của Nhà nước đối với TNXP, mọi tiêu chuẩn định mức cung cấp cho TNXP phải tính theo giá cung cấp, phải quan tâm đến đặc điểm sức khỏe, bệnh tật của nữ TNXP, phân công sử dụng hợp lý sức lao động của chị em.

- Khuyến khích mở rộng phong trào tăng gia chăn nuôi, trồng trọt tự cải thiện đời sống. Động viên giáo dục tư tưởng, đi đôi với khuyến khích khen thưởng TNXP có sáng kiến tăng năng suất lao động.

Có thể nói Quyết định 121 của Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo bổ khuyết và hướng dẫn, tạo bước phát triển mới trong việc phát huy vai trò xung kích của TNXP chống Mỹ cứu nước. Quyết định đó còn có tác dụng chỉ đạo hướng dẫn cho lực lượng TNXP trong suốt cả 3 nhiệm kỳ 10 năm (1965 – 1975). Đây cũng là một thể hiện rõ nét nhất trong sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với TNXP trong kháng chiến chống Mỹ.

Cùng với sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, Trung ương Đoàn Thanh niên và Bộ Giao thông Vận tải… cũng thường xuyên có sự chỉ đạo sâu sát và cụ thể đối với TN XP nhằm không ngừng nâng cao kết quả thực hiện nhiệm vụ phục vụ chiến đấu và chiến đấu./.

(Theo “Lịch sử truyền thống của lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước” - NX B Giao thông Vận tải - 2002)

Kim Yến (st) 


 

Trung ương Đoàn Thanh niên với lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước

 

Có thể nói lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước, trong suốt quá trình hình thành và phát triển với những chiến công oanh liệt của mình, luôn gắn liền với sự chỉ đạo và tổ chức của Trung ương Đoàn thanh niên lao động Việt Nam (Nay là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) dưới sự lãnh đạo của Đảng.

 

Căn cứ vào các văn bản: Chỉ thị 105 ngày 29-7-1965 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị 71 ngày 21-6-1965 của Thủ tướng Chính phủ, Hội nghị BCH Trung ương Đoàn lần thứ 9 ngày 04-06-1965 và Nghị quyết số 55 ngày 26-08-1965, Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã thành lập Ban chỉ đạo TNXP Trung ương và cử đồng chí Nguyễn Văn Đệ, Bí thư Trung ương Đoàn, đang làm Trưởng ban Công nghiệp Trung ương Đoàn sang làm Trưởng Ban Chỉ đạo TNXP chống Mỹ cứu nước Trung ương. Ban Bí thư Trung ương Đoàn còn mở hội nghị cán bộ quán triệt chủ trương thành lập lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước để các tỉnh, thành Đoàn khẩn trương thực hiện.

 

Trong hơn 10 năm hoạt động của TNXP, Trung ương Đoàn đã tập trung vào những nội dung công tác lớn sau đây:

 

Về công tác tuyển quân, tuyển cán bộ thành lập các Đội TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung): Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã ra chỉ thị hướng dẫn cụ thể cho các tỉnh, thành Đoàn tuyển cán bộ, đội viên theo chỉ tiêu, đảm bảo số lượng, chất lượng và thời gian quy định.

 

Ban Chỉ đạo TNXP Trung ương cử cán bộ kết hợp với cán bộ của ngành xuống từng địa phương truyền đạt chủ trương, kiểm tra hướng dẫn từng cơ sở trong công tác tuyên truyền giáo dục, động viên thanh niên ghi tên tình nguyện, kiểm tra sức khỏe, lập danh sách, định ngày xuất quân…

 

Do việc giáo dục, giác ngộ chính trị, tư tưởng của thế hệ thanh niên thời chống Mỹ được nâng cao, kết hợp với khí thế sôi nổi của phong trào thanh niên “Ba sẵn sàng” nên khi có chủ trương thành lập đội TNXP chống Mỹ, cứu nước, ở khắp nơi nam, nữ thanh niên đã nô nức, tình nguyện tham gia (Theo báo cáo còn lưu trữ thì khi tuyển TNXP đợt đầu (1964) số thanh niên đăng ký tình nguyện xin đi tăng hơn nhiều so với số lượng cần tuyển).

 

TNXP phan 2  anh 1
Bộ trưởng Bộ GTVT Phan Trọng Tuệ (người đầu tiên bên phải) và đ/c Nguyễn Văn Đệ - Bí thư Trung ương Đoàn, Bí thư  Đoàn TN GTVT (người thứ hai từ trái sang) trong dịp đến thăm
Đội TNXP 53 (Hà Tĩnh) Ảnh: T.L

 

Đoàn Thanh niên với phong trào “Ba sẵn sàng” đã chuẩn bị tư tưởng, giáo dục thế hệ trẻ lòng căm thù giặc Mỹ, sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, sẵn sàng đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc và Đảng yêu cầu. Chính vì vậy các tổ chức Đoàn Thanh niên từ Trung ương xuống cơ sở không cần tăng thêm biên chế, phải san sẻ tăng cường cho việc thành lập lực lượng TNXP nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ. Đó là một thành tích xuất sắc của Đoàn trong giai đoạn lịch sử này.

 

Đi đôi với nhiệm vụ tuyển quân, công tác lựa chọn, sắp xếp cán bộ, bồi dưỡng đào tạo cán bộ cho lực lượng TNXP được coi là khâu trọng yếu có ý nghĩa quyết định.

 

 Trong nhiệm kỳ I tuyển trên 7 vạn quân, tính ra có gần 50 Đội TNXP và trên 400 Đại đội (có đội 500-600 quân nhưng cũng có đội 5.000 quân). Chủ trương tuyển chọn cán bộ Đoàn từ xã lên huyện, lên tỉnh để tăng cường cho TNXP hàng nghìn cán bộ là quyết định đúng. Đây là chủ trương giải quyết tình thế ban đầu, tiếp theo đó Trung ương Đoàn đã kịp thời mở trường bồi dưỡng, đào tạo cán bộ TNXP.

 

Toàn bộ cán bộ, học sinh của trường được coi như một đại đội TNXP, ban chỉ huy lớp được coi như ban chỉ huy đại đội, dưới lớp tổ chức thành các tiểu đội. Sinh hoạt của nhà trường được áp dụng theo điều lệnh, nội vụ, sinh hoạt quân sự hóa của TNXP. Các bài học đều có kiểm tra, đánh giá kết quả, cuối khóa tổ chức thi phát bằng tốt nghiệp… Về giáo viên chính trị và nghiệp vụ TNXP do cán bộ Đoàn phụ trách, còn giáo viên nghiệp vụ quân sự, thể dục thể thao, Trung ương Đoàn yêu cầu Bộ Quốc phòng và ủy ban Thể dục thể thao cử cán bộ biệt phái phụ trách.

 

Sau một năm hoạt động, tổng kết công tác, Trung ương Đoàn chủ trương cho dân chủ bầu lại cán bộ đại đội, do đó cán bộ đại đội được trẻ hóa, ăn ở sinh hoạt như đội viên, hàng ngày có mặt tại hiện trường với đội viên.

 

Về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho TNXP Giáo dục chính trị tư tưởng luôn luôn là nhiệm vụ chủ yếu của Đoàn thanh niên đối với các thế hệ thanh niên.

 

Căn cứ vào từng thời kỳ, từng đợt, từng sự kiện lớn, Ban Bí thư Trung ương Đoàn liên tục có các Chỉ thị, Nghị quyết hướng dẫn các cấp bộ Đoàn, các cơ sở Đoàn, Đội tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng giúp đoàn viên, đội viên hiểu được tình hình nhiệm vụ cách mạng, hiểu biết được cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ cấp bách thiêng liêng nhằm bảo vệ đất nước.

 

Công tác giáo dục tư tưởng gắn liền với từng sự kiện được tiến hành liên tục như: Nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của Bác 19-5 hoặc nhân dịp một năm Bác gửi thư khen TNXP, một năm Quốc hội tặng thưởng danh hiệu Anh hùng cho Đại đội 759 và A trưởng TNXP Nguyễn Thị Kim Huế, một năm nhận Cờ thi đua luân lưu của Trung ương Đảng và một năm Đại hội thi đua của TNXP chống Mỹ, cứu nước miền Bắc…

 

Khi cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam bước vào giai đoạn mới, đế quốc Mỹ chuẩn bị đưa thêm 20 vạn quân Mỹ vào miền Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam mở chiến dịch Đông Xuân quyết thắng. Ở miền Bắc, đế quốc Mỹ tăng cường đánh phá ác liệt. Trước tình hình đó, ngày 28-11-1967 Ban Bí thư Trung ương Đoàn ra Chỉ thị số 10 mở một đợt giáo dục cơ bản nhằm nâng cao giác ngộ chính trị tư tưởng, phát huy vai trò xung kích cách mạng của TN XP dũng cảm, hy sinh, sáng tạo, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, quyết tâm bảo vệ mạch máu giao thông vận tải luôn thông suốt, liên tục, thực hiện khẩu hiệu:

 

Địch phá ta sửa ta đi

 

Địch lại phá ta lại sửa ta đi.

 

Lãnh đạo các đội TNXP thực hiện 3 nhiệm vụ lao động sản xuất, chiến đấu, học tập và rèn luyện

 

Về lao động sản xuất:

 

Quyết định 121 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ: Thanh niên có 3 nhiệm vụ sảnxuất, chiến đấu, học tập. Trong 3 nhiệm vụ ấy sản xuất là nhiệm vụ trung tâm, cũng có nghĩa là dù bất cứ lúc nào, đang làm gì, nếu yêu cầu sản xuất là khẩn trương cấp bách thì phải ưu tiên phục vụ sản xuất. Ban Bí thư TƯ ra văn bản liên tịch hướng dẫn cụ thể.

 

Các đội được sắp xếp tổ chức lại có quy mô, số lượng lao động thích hợp với yêu cầu sản xuất. Căn cứ vào đặc điểm, tính chất công việc của từng ngành, từng công trường, từng địa phương lực lượng TN XP được sắp xếp lại theo 2 hình thức:

 

- Hình thức 1: Các đội TNXP đảm nhận toàn bộ công việc, coi đó là công trình thanh niên, Ban chỉ huy đội được giao chức danh như Ban chỉ huy công trường, phía cơ quan chuyên môn trực tiếp chỉ đạo, cung cấp dụng cụ, cán bộ kỹ thuật, hướng dẫn kế hoạch sản xuất, quản lý kỹ thuật…

 

- Hình thức 2: Các đội TNXP chỉ đảm nhận một phần công việc cụ thể trên một công trường có nhiều lực lượng tham gia. Ban Chỉ huy Đội TNXP chỉ là một bộ phận trong công trường chung. Trưởng Ban chỉ huy đội TNXP được tham gia Ban chỉ huy công trường để phối hợp công tác, bàn bạc thống nhất các chủ trương của công trường đối với TNXP, nhất là việc quản lý kế hoạch và quản lý lao động.

 

TNXP phan 2  anh 2
Đại đội TNXP 759 - đơn vị Anh hùng đang tu sửa đường ở Quảng Bình Ảnh: T.L

 

Nói chung, sau khi sắp xếp lại theo 2 hình thức hoạt động và phân cấp quản lý TNXP cho Đoàn Thanh niên Giao thông vận tải Trung ương, công tác lãnh đạo của Đoàn và hoạt động của các đội TNXP được tăng cường: Tính chủ động, sáng tạo của đội, tinh thần hăng hái, phấn khởi của cán bộ đội viên được phát huy, những mắc mứu hàng ngày trong quan hệ giữa Đoàn, Đội với ngành quản lý được giải quyết tốt. Do đó mọi mặt hoạt động và phong trào thi đua trên các công trường, trong các đội TNXP chống Mỹ, cứu nước sôi nổi, mạnh mẽ và đạt kết quả tốt hơn.

 

Về nhiệm vụ chiến đấu

 

Nội dung của nhiệm vụ bao gồm 3 mặt:

 

Tổ chức cơ sở của TNXP là đại đội, do đó Ban chỉ huy đại đội TNXP được coi là Ban chỉ huy của mọi hoạt động quân sự. Lực lượng TNXP được huấn luyện quân sự và giáo dục chính trị theo chương trình thống nhất của dân quân tự vệ, quân nhân dự bị, trong đó 10% được huấn luyện và trang bị vũ khí như tự vệ chiến đấu. Ban Chỉ huy đại đội TNXP cũng được huấn luyện theo chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ chỉ huy đại đội. Cán bộ TNXP còn được hướng dẫn học các động tác vũ thuật để đối phó khi gặp biệt kích.

 

Việc giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, hiểu biết về quân sự giúp cho các cán bộ đội viên xác định rõ nhiệm vụ của mình:

 

- Sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt địch.

 

- Sẵn sàng bổ sung cho quân đội thường trực.

 

- Tích cực vận động nhân dân tham gia xây dựng lực lượng vũ trang bảo vệ sản xuất đồng thời xây dựng nếp sống quân sự hóa trong sinh hoạt và trong lao động sản xuất.

 

Về nhiệm vụ học tập bổ túc văn hóa

 

Học tập bổ túc văn hóa cho TNXP là một trong ba nhiệm vụ được xác định ngay từ đầu.

 

Để tạo điều kiện giúp việc học tập bổ túc văn hóa được thuận lợi, mỗi đại đội TNXP ngoài 2 giáo viên chuyên trách còn kết hợp tuyển chọn một đội ngũ giáo viên bán chuyên trách ngay trong cán bộ đội viên TNXP.

 

Công tác tổ chức lãnh đạo cán bộ đội viên TNXP học tập tốt do Đoàn Thanh niên lao động phụ trách.

 

Trong điều kiện chiến đấu gay go ác liệt, luôn phải ưu tiên cho việc cứu chữa cầu đường, san lấp hố bom, đảm bảo mạch máu giao thông luôn thông suốt, việc đảm bảo giờ học, chương trình tưởng như không sao thực hiện được, trăm nghìn khó khăn xảy ra… Nhưng nhờ tinh thần say sưa ham học của quần chúng, nhờ tinh thần trách nhiệm của thầy cô giáo, của cán bộ Đội, cán bộ Đoàn nên việc học tập văn hóa của TNXP đã đạt được kết quả tốt.

 

Thành tích và kết quả TNXP chống Mỹ cứu nước đạt được trong nhiệm vụ học bổ túc văn hóa quả là một kỳ tích, một sự thông minh sáng tạo. Có lẽ trong lịch sử phong trào học tập bổ túc văn hóa của nhân dân ta, phong trào học tập bổ túc văn hóa của TNXP là một dấu ấn sáng chói, không thể nào quên.

 

Về xây dựng cuộc sống tinh thần, vật chất lành mạnh của TNXP

 

Trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt, cuộc sống vật chất của TNXP vô cùng hạn hẹp, khó khăn, thiếu thốn nhiều bề. Việc chăm lo đảm bảo sức khỏe và tinh thần cho TNXP để anh chị em phấn đấu hoàn thành 3 nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu, học tập đã được lãnh đạo các cấp quan tâm. Suốt 3 nhiệm kỳ TNXP dù ở nơi núi rừng âm u, chiến đấu ác liệt, hay ở hậu phương sống với dân, ít bị bom đạn… phong trào văn nghệ “Tiếng hát át tiếng bom” cũng như phong trào tăng gia chăn nuôi, trồng trọt đều phát triển mạnh mẽ. Bất kỳ đơn vị nào trong bữa ăn hàng ngày cũng có thêm rau, thịt do tự tay anh chị em làm ra, chí ít anh chị em nuôi quân cũng vào rừng tìm thêm rau, thêm củ để cải thiện cuộc sống. Đời sống tinh thần, một nhu cầu thực sự của tuổi trẻ, ở đâu có TNXP ở đó có ca hát vui tươi. Có đơn vị TNXP đề ra khẩu hiệu: “Biết đi là biết múa, biết nói là biết hát”, 100% nam nữ TNXP tham gia phong trào ca hát, làm báo, làm thơ, biểu diễn văn nghệ, sáng tác kịch…

 

Xây dựng Đảng, xây dựng Đoàn trong lực lượng TNXP

 

Nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng Đoàn trong các đội TNXP được coi trọng ngay từ đầu, nên khi tuyển cán bộ đội viên TNXP, Ban Bí thư TƯ Đoàn đã chủ trương cho các cơ sở thống nhất thực hiện: tối thiểu mỗi đại đội TNXP (có trên dưới 200 cán bộ đội viên) phải có ít nhất 3-5 đảng viên để xây dựng chi bộ Đảng và tùy theo số lượng đoàn viên xây dựng một Chi đoàn thanh niên.

 

Do có bộ máy tổ chức hoàn chỉnh nên công tác lãnh đạo của Đảng, vai trò xung phong gương mẫu, nòng cốt của Đoàn Thanh niên trong các đơn vị TNXP được phát huy ngay từ buổi đầu.

 

Hàng tháng qua sinh hoạt Đoàn, sinh hoạt Đội, anh chị em đã bình bầu, lựa chọn những cán bộ đội viên xuất sắc giới thiệu để Đảng, Đoàn giúp đỡ.

 

Sau một nhiệm kỳ 3 năm số đảng viên trong Đội TNXP đã tăng từ 3% lên 14%.

 

(Theo “Lịch sử truyền thống của lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước” - NX B Giao thông Vận tải - 2002)

 

Ký ức sâu nặng về hai sự kiện quan trọng

 

Trong hành trình ra đời và hoạt động của lực lượng TNXP, có rất nhiều dấu mốc lịch sử đáng ghi nhớ. Trong đó, có hai sự kiện quan trọng được coi là có tác động lớn đối với tổ chức và lực lượng TNXP, đã được ông Nguyễn Văn Đệ – Nguyên Bí thư TƯ Đoàn Thanh niên, nguyên Trưởng ban chỉ đạo TNXP chống Mỹ, cứu nước (tập trung), ghi lại. Xin trân trọng giới thiệu bài viết tới bạn đọc.

 

Nhớ mãi lần gặp Bác

 

Sau khi có Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước tập trung (21/6/1965) để phục vụ nhiệm vụ đảm bảo giao thông vận tải, đảm bảo nhiệm vụ chiến lược chi viện miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, công việc tuyên truyền giáo dục, tuyển thanh niên xung phong đang tiến hành khẩn trương.

 

Ngày 12-7-1965, Văn phòng Chủ tịch nước điện cho Trung ương Đoàn thanh niên cử người phụ trách TNXP lên gặp Bác. Anh Vũ Quang - Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn thanh niên cử tôi đi và dặn: cậu chuẩn bị chu đáo và đi ngay. Bác hẹn làm việc đúng 7 giờ sáng.

 

Nhận được tin lòng tôi xốn xang, xúc động, vừa mừng vừa lo. Thực ra trong đời hoạt động cách mạng, cũng đã nhiều lần được gặp Bác, nghe Bác nói chuyện, nhưng được trực tiếp làm việc với Bác thì đây là lần đầu tiên, không hiểu gặp Bác rồi ăn nói ra sao? Bác sẽ hỏi những vấn đề gì?

 

Khoảng 7 giờ kém, anh bảo vệ đưa tôi vào phòng làm việc của Bác, căn phòng thoáng mát, đơn sơ, sạch sẽ.

 

Đúng 7 giờ, Bác xuất hiện, nhìn thấy Bác tôi liền đứng dậy cúi chào Bác.

 

Bác bắt tay tôi, rồi hỏi:

 

- Chú đến lâu chưa?

 

- Dạ, thưa Bác cháu vừa đến ạ? Cháu xin giới thiệu cháu là Nguyễn Văn Đệ - Bí thư Trung ương Đoàn thanh niên, được phân công làm Trưởng ban chỉ đạo TNXP chống Mỹ cứu nước của Trung ương Đoàn.

 

- Tốt, chú uống nước đi rồi kể Bác nghe, các cháu đã tổ chức TNXP chống Mỹ cứu nước thế nào? Các cháu gái trai có hăng hái đi TNXP không?

 

Tôi trấn tĩnh dần, vì vấn đề này tôi vừa mới nghe anh chị em phản ánh tình hình của các địa phương báo về.

 

Tôi báo cáo tóm tắt với Bác:

 

Thưa Bác, gần một tháng nay chúng cháu đã phổ biến chủ trương của Bác, của Đảng, của Chính phủ quyết định thành lập lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước, tuyên truyền giáo dục, vận động thanh niên ghi tên tình nguyện đi TNXP. Đợt đầu tuyển 52.000 TNXP của 12 tỉnh, thành.

 

Nam nữ thanh niên rất hăng hái tình nguyện, ai cũng muốn được đi đợt đầu, số làm đơn ghi tên nhiều hơn số chỉ tiêu, cần tuyển. Ví dụ: Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội chỉ tiêu tuyển 200 thì l.000 thanh niên xin đi, huyện Can Lộc - Hà Tĩnh chỉ tiêu tuyển 400 thì 3.193 thanh niên xin đi, nhất là số chị em con gia đình tư sản mới cải tạo, số thanh niên Việt kiều mới về nước, số thanh niên các tôn giáo... rất hăng hái xin đi, anh chị em coi đây là cơ hội ngàn năm có một, vì từ trước đến nay, ta tuyển bộ đội, tuyển công nhân, cán bộ, họ rất ít được đi.

 

Bác chăm chú nghe và hỏi:

 

- Thế khó khăn của các chú là vấn đề gì?

 

- Dạ thưa Bác, khó khăn nhất là vận động thanh niên tạm thời ở lại ạ.

 

Bác mỉm cười hài lòng rồi hỏi tiếp:

 

- Về chế độ, chính sách đối với thanh niên xung phong, Đoàn thanh niên và các ngành đã bàn cụ thể chưa?

 

- Dạ thưa Bác, chúng cháu đã bàn thống nhất rồi, Bộ Lao động, Bộ Giao thông vận tải đã có công văn hướng dẫn cụ thể các chế độ ăn, ở, trang cấp, học tập...

 

- Thế là tốt nhưng còn đối với các cháu gái, có chế độ chính sách cụ thể gì khác với các cháu trai?

 

Tôi thực sự lúng túng, đỏ mặt, vội vàng nói dối với Bác là đã bàn về vấn đề vệ sinh của phụ nữ.

 

Hình như Bác biết, Bác liền căn dặn: các chú phải bàn bạc với ngành Giao thông vận tải, Lao động, Y tế hết sức chú ý đến sức khỏe, bệnh tật riêng của các cháu gái, không phân công các cháu gái làm công việc quá nặng nhọc, ngâm mình dưới nước, ảnh hưởng đến sức khoẻ và tương lai. Rồi Bác đứng dậy, vừa cười, vừa đưa hai tay lên bụng hỏi: Còn cái này nó to ra, các chú nghĩ sao?

 

- Dạ, thưa Bác chúng cháu coi trọng giáo dục đạo đức cho nam thanh niên luôn thực hiện mối quan hệ nam nữ lành mạnh.

 

Bác nói tiếp:

 

- Các chú còn phải giáo dục, dặn dò các cháu gái phải biết tự trọng, giữ mình và đấu tranh với tư tưởng, hành động xấu của con trai nữa chứ.

 

Rồi Bác nói tiếp:

 

- Để đánh thắng giặc Mỹ, cần có những thanh niên dũng cảm chịu đựng gian khổ ở những nơi địch đánh phá ác liệt, để sửa đường, sửa cầu, vận chuyển súng đạn, lương thực, giúp miền Nam đánh thắng giặc Mỹ. Thanh niên hăng hái đi là tốt nhưng các chú phải hết sức chú ý chăm lo giáo dục sức khỏe, học tập văn hóa và đời sống tinh thần vật chất của TNXP. Các chú giáo dục, động viên cán bộ, đội viên làm việc tốt chiến đấu tốt, học tập, rèn luyện tốt rồi báo cáo thành tích cho Bác biết, để Bác khen thưởng.

 

Khắc sâu lời dạy của Bác, tôi vội tranh thủ báo cáo buổi gặp Bác và ý kiến của Bác đối với Trung ương Đoàn, với các ngành và cán bộ đội viên TNXP, kịp thời sửa chữa khuyết điểm, quyết tâm thực hiện lời dạy của Bác.

 

Đúng như lời Bác hứa: Ngày 20-9-1966 sau hơn 1 năm hoạt động, Bác đã gửi thư khen các đội TNXP chống Mỹ cứu nước tập trung.

 

Tình cảm và công lao của Bác đối với TNXP như núi cao biển rộng, sự chăm sóc, giáo dục, rèn luyện của Bác đối với cán bộ đội viên TNXP khác nào người cha chăm sóc con, người ông chăm sóc cháu. Tình cảm ấy chúng tôi không bao giờ quên.

 

Gặp Thủ tướng Võ Văn Kiệt, báo cáo tồn đọng và đề đạt ý kiến, yêu cầu, nguyện vọng thiết tha, chính đáng của TN XP.

 

Sau chiến thắng lịch sử 1975, nước nhà độc lập hòa bình thống nhất, lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử, nên có quyết định giải thể (12-1975).

 

Nhà nước có biết bao công việc cấp bách phải giải quyết như hàn gắn vết thương chiến tranh, giải quyết nhiều việc khó khăn, mới mẻ về phục vụ phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc phía Bắc và phía Tây Nam... nên những tồn đọng về chế độ chính sách của nhiều đối tượng chính sách, trong đó có TNXP đều tạm hoãn.

 

Đến cuối những năm 90 (thế kỷ trước), Đảng và Nhà nước ta mới có chủ trương giải quyết. Các đối lượng chính sách như: Lão thành cách mạng, cán bộ bị tù đày, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, liệt sĩ, thương binh của lực lượng vũ trang v.v... đều có tổ chức đứng ra chăm lo giải quyết. Còn TNXP do tổ chức đã giải thể nên cán bộ, đội viên hết sức băn khoăn lo lắng, không biết cơ quan nào sẽ đứng ra lo cho mình.

 

TNXP phan 2  anh 3
Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phó Thủ tướng Phan Văn Khải chụp ảnh kỷ niệm sau buổi gặp mặt Ban Liên lạc cựu TNXP Trung ương (10/6/1997) Ảnh: T.L

 

Nắm bắt được yêu cầu, nguyện vọng thiết tha, chính đáng ấy, đầu năm 1993 tôi và một số anh chị em cựu cán bộ Đoàn, được sự ủng hộ của Bộ Giao thông vận tải, đã tự nguyện đứng ra thành lập Ban Liên lạc cựu cán bộ Đoàn và TNXP chống Mỹ cứu nước phục vụ giao thông vận tải.

 

Không câu nệ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức xã hội, vì quyền lợi chính đáng của đồng đội và trách nhiệm trước lịch sử, ngoài hoạt động xã hội, chúng tôi đã kiên trì thực hiện mọi biện pháp có thể, như: mở hội thảo, đi khảo sát tình hình, làm báo cáo, viết thư kiến nghị gửi lên Trung ương Đảng và Chính phủ, mặt khác viết sách báo, làm phim để qua các phương tiện truyền thông... mong muốn Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá đúng mức, công bằng vai trò lịch sử cũng như sự hy sinh, cống hiến to lớn của các thế hệ TNXP trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, từ đó có chủ trương biện pháp giải quyết những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng, đánh giá khen thưởng, thực hiện các chính sách liệt sĩ, thương binh, bệnh binh cho TNXP.

 

Gần 5 năm hoạt động không mệt mỏi, Ban Liên lạc đã góp phần tích cực khơi dậy sự quan tâm chú ý của Nhà nước, các ngành các cấp về lực lượng TNXP.

 

Đến ngày 23 tháng 7 năm 1996, sau khi thành lập Ban Liên lạc cựu TNXP Trung ương do tôi làm Trưởng ban, công việc cấp bách quan trọng đầu tiên là xin gặp Thủ tướng Chính phủ.

 

Ban Liên lạc phân công tôi chuẩn bị viết báo cáo, kiến nghị, đồng chí Nguyễn Anh Liên, Phó Ban Liên lạc gặp Thủ tướng xin được làm việc.

 

Điều bất ngờ và may mắn là mặc dù Thủ tướng Võ Văn Kiệt đang họp Chính phủ nhưng đã đồng ý gặp Ban Liên lạc cựu TNXP Trung ương trước giờ họp Chính phủ (tức 6h30 - 7h30 sáng). Vừa gặp Thủ tướng ngày 8-6-1997 thì ngày 10-6-1997 Thủ tướng cho họp ngay.

 

Tôi vui mừng, phấn khởi, vừa lo công việc chuẩn bị viết báo cáo, đánh máy in chỉ trong 1 ngày, không kịp thông qua tập thể. May mắn là các vấn đề cần báo cáo và kiến nghị, tôi đã nung nấu từ lâu...

 

Dự họp đột xuất, khẩn trương nên thành phần họp lúc đó chỉ có Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phó Thủ tướng Phan Văn Khải, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Trần Đình Hoan, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Vũ Trọng Kim - cán bộ Văn phòng Chính phủ và Ban Liên lạc chúng tôi có 3 người, tôi và 2 Phó ban là đồng chí Nguyễn Anh Liên và đồng chí Lê Văn Sang. Không kịp mời các cơ quan thông tấn báo chí.

 

Cuộc họp diễn ra thật nhanh, gọn. Trong cuộc họp tôi trình bày bản báo cáo, nêu rõ vai trò lịch sử, công lao thành tích, hy sinh cống hiến xuất sắc của TN XP và đề xuất 5 vấn đề lớn đề nghị Thủ tướng giải quyết Báo cáo xong, Bộ trưởng Bộ LĐTB-XH phát biểu bổ sung, sau đó Phó Thủ tướng Phan Văn Khải hỏi:

 

- Ban Liên lạc cần bao nhiêu tiền để làm Kỷ niệm chương cho TNXP?

 

- Dạ thưa anh, có trên 20 vạn cán bộ, đội viên, nên xin Chính phủ cấp 1 tỷ 2 trong 2 năm.

 

Đồng chí Phan Văn Khải cười và nói: Tưởng nhiều, chứ 1 tỷ 2 thì Chính phủ sẽ cấp luôn.

 

Cuối cùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt phát biểu hoan nghênh Ban Liên lạc cựu TNXP Trung ương đã có bản báo cáo và đề xuất ý kiến cụ thể, súc tích, xác đáng. Thủ tướng ủng hộ hoàn toàn và kết luận: “Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, các thế hệ TNXP Việt Nam đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chịu nhiều hy sinh mất mát, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam. Những công lao, thành tích và sự hy sinh cống hiến của TNXP hết sức lo lớn, đã khẳng định vai trò lịch sử của lực lượng TNXP Việt Nam”.

 

5 vấn đề Thủ tướng quyết định là:

 

1. Ủng hộ việc phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” cho các thế hệ TN XP Việt Nam và tiếp tục xét khen thưởng các địa phương có nhiều thành tích xuất sắc trong việc tổ chức, lãnh đạo TNXP.

 

2. Tiếp tục giải quyết tồn đọng về chế độ, chính sách liệt sĩ thương binh, bệnh binh, mất sức và nhiễm chất độc hóa học đối với TNXP.

 

3. Giao cho Bộ Văn hóa và Trung ương Đoàn Thanh niên hướng dẫn, xét duyệt, công nhận các di tích lịch sử của TNXP.

 

4. Giải quyết kinh phí để làm Kỷ niệm chương tặng TNXP và kinh phí hoạt động của Ban Liên lạc, giúp cho cán bộ, đội viên mất hồ sơ, giấy tờ, lập hồ sơ mới, thẩm tra giám định làm chế độ chính sách.

 

5. Ủng hộ việc thành lập Ban Liên lạc cựu TNXP các địa phương, giao cho Ban Tổ chức Chính phủ và Trung ương Đoàn phối hợp ban hành quy chế hoạt động của Ban Liên lạc.

 

Cuối cùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhắc nhở: “Đối với cán bộ, đội viên do tổ chức TN XP giải thể, không còn hồ sơ chứng từ, Ban Liên lạc phải giúp đỡ, tìm người xác nhận, giúp anh chị em giải quyết nhanh chóng.

 

Sau cuộc họp 4 ngày, Chính phủ đã ra Thông báo 64 và một tuần sau các cơ quan thông tấn báo chí đưa tin. Ban Liên lạc đã họp với các địa phương truyền đạt kết quả cuộc gặp Thủ tướng.

 

Tôi cứ nghĩ mãi: Chúng tôi thật là may mắn được gặp Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người có tâm huyết với TNXP, có phong cách làm việc quyết đoán, nên mọi yêu cầu nguyện vọng của TNXP đã được nhanh chóng giải quyết như vậy.

 

Nguyễn Văn Đệ (Nguyên Bí thư TƯ Đoàn Thanh niên; Nguyên Trưởng ban chỉ đạo TNXP chống Mỹ, cứu nước Trung ương)

 

Bác Hồ với Thanh niên xung phong

 

TNXP phan 2  anh 4
Bác Hồ nói chuyện với anh chị em TNXP làm nhiệm vụ sửa đường
phục vụ chiến dịch Biên giới (1951) Ảnh: T.L

 

Trong suốt quá trình ra đời và phát triển lớn mạnh, lập nên bao kỳ tích, lực lượng TNXP luôn nhận được sự quan tâm, dìu dắt và động viên khích lệ hết sức quý báu của Bác Hồ.

 

Kể từ ngày thành lập tổ chức TNXP (tập trung) đầu tiên - 15/7/1950 - đến ngày Bác đi xa (02/9/1969), Người đã 21 lần đến thăm, nói chuyện, viết thư khen, viết bài đăng trên Báo Nhân Dân về Thanh niên xung phong.

 

Tình cảm và sự quan tâm sâu sắc của Bác đã giúp cho các thế hệ cán bộ, đội viên TNXP phát huy mạnh mẽ vai trò xung kích và ý chí cách mạng, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang mà Đảng, Bác Hồ giao phó; góp phần xứng đáng vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng, luôn quan tâm tới lực lượng thanh niên nói chung và TNXP nói riêng. Dù bận trăm công ngàn việc, hàng ngày Bác vẫn dành thời gian đọc báo, nghe đài, theo dõi hoạt động của thanh niên; đặc biệt là trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Bác thường xuyên gửi thư động viên, khen ngợi và căn dặn thanh niên… Đặc biệt, bài thơ Bác tặng thanh niên:

 

Không có việc gì khó

 

Chỉ sợ lòng không bền

 

Đào núi và lấp biển

 

Quyết chí ắt làm nên.

 

Không chỉ là lời hiệu triệu mà còn là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với các thế hệ thanh niên Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.

 

Lực lượng Thanh niên xung phong Việt Nam vinh dự tự hào được thành lập theo chủ trương của Bác Hồ. Chủ trương ấy cũng xuất phát từ tình hình thực tế của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là từ đầu năm 1950, cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới. Thế và lực của ta ngày càng mạnh hơn. Đảng ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công cuộc kháng chiến, gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị giành thắng lợi lớn.

 

TNXP phan 2  anh 5
Bác Hồ với Anh hùng TNXP Nguyễn Thị Kim Huế Ảnh: T.L

 

Với tinh thần đó, tháng 9-1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới Cao - Bắc - Lạng nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng vùng biên giới phía Bắc, mở rộng vùng căn cứ địa Việt Bắc, giành quyền chủ động trên chiến trường chính. Nhiệm vụ to lớn đó đòi hỏi phải huy động một lực lượng dân công phục vụ và đảm nhận những công việc hết sức to lớn và quan trọng như mở đường, vận chuyển lương thực, vũ khí, phục vụ bộ đội chiến đấu… Thực tế cho thấy, không phải việc gì bộ đội cũng có đủ lực lượng tham gia mà phải huy động nhân dân, dân công hỏa tuyến…

 

Tuy vậy, với những nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm lại đòi hỏi phải có lực lượng thanh niên trẻ, khỏe, có tinh thần dũng cảm, hy sinh, có tổ chức quản lý và lãnh đạo chặt chẽ mới hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ nặng nề.

 

Ý kiến đề xuất của Bác về việc thành lập một lực lượng như vậy đã được Trung ương Đảng và Chính phủ nhất trí - Vậy là lực lượng TNXP được thành lập từ ngày 15/7/1950. Khẳng định tầm quan trọng và sự cần thiết phải thành lập lực lượng TNXP cũng như vai trò, nhiệm vụ mà TNXP phải gánh vác, Bác Hồ khẳng định: “Ở nước ta từ Cách mạng Tháng Tám thành công đến nay, thanh niên ta đã tích cực tham gia mọi mặt công tác, từ tăng gia sản xuất ở hậu phương đến xung phong chiến đấu ngoài mặt trận.

 

Ngoài hai tổ chức chung là Thanh niên cứu quốc và Đoàn Thanh niên Việt Nam, ta còn có các đội Thanh niên xung phong. Các đội đã có thành tích về phục vụ chiến đấu và công tác cầu đường.

 

Kháng chiến càng tiến tới, công việc ngày càng nhiều, chúng ta cần củng cố và phát triển Đội Thanh niên xung phong để đảm bảo thêm công việc kháng chiến và đào tạo cán bộ sau này.

 

Nhiệm vụ của Đội TNXP là xung phong mọi việc, bất kỳ việc khó, dễ và phục vụ đến ngày kháng chiến thành công. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang của thanh niên ta”(1).

 

Tuy giao cho Đoàn Thanh niên thành lập lực lượng TNXP, nhưng Bác vẫn luôn theo dõi từng hoạt động cụ thể của Đội TNXP đầu tiên, kịp thời động viên, cổ vũ anh chị em trong đội cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chính sự quan tâm lãnh đạo chặt chẽ, sát sao và kịp thời của Bác là nhân tố quyết định giúp TNXP hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. TNXP ngày càng chứng tỏ là một đội quân xung kích cách mạng, luôn gắn bó, sát cánh cùng bộ đội, bám sát chiến trường, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi của các chiến dịch.

 

Đầu năm 1951, trong khi đi kiểm tra công ty cầu đường ở Chiến khu Việt Bắc, Bác đã ghé thăm Liên phân đội 312 TNXP đang làm việc tại khu vực Cầu Nà Cù, Bắc Cạn và trong không khí vui vẻ, ấm cúng, Bác đã đọc tặng Thanh niên bài thơ như đã trình bày ở trên.

 

Trong mỗi thắng lợi của những chiến dịch hay những trận đánh lớn của quân đội ta, đều có sự góp công của TNXP. Bác cũng rất hài lòng về tinh thần hăng hái xung phong, về những cống hiến, hy sinh của lực lượng TNXP đối với cách mạng. Nhưng, đồng thời Bác cũng tìm hiểu, xem xét cụ thể những điều còn hạn chế đối với lực lượng TNXP. Với đội TNXP công tác Trung ương, Bác từng chỉ rõ những hạn chế, cụ thể là: “Tổ chức nặng nề quá; Nhiều người chỉ huy, ít người làm việc. Năng suất công tác thấp. Số công gián tiếp rất cao, số người nghỉ và làm việc linh tinh rất nhiều. Công việc thì nặng nhọc, làm đêm hại sức khỏe mà trong đội có nhiều cháu gái, ốm đau luôn, có hại đến sinh đẻ về sau. Thời gian xung phong quá ngắn (6 tháng) khó khăn và lung tung. Vì thế tinh thần công tác của anh chị em không đúng mức. Nặng về ngành dọc Thanh niên, không mật thiết và chịu sự lãnh đạo của cơ quan sử dụng” (2).

 

Từ những nhìn nhận kịp thời và đúng đắn đó, Bác đã chỉ thị cần nhanh chóng hoàn chỉnh bộ máy, sắp xếp lại tổ chức, tăng cường quản lý và lãnh đạo để nâng cao sức chiến đấu và khả năng hoàn thành nhiệm vụ của lực lượng TNXP, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ kháng chiến.

 

Sự quan tâm của Bác đối với TNXP có thể nói là rất toàn diện và cụ thể. Không chỉ là sự lãnh đạo về chủ trương mà Bác còn chỉ rõ những vấn đề cụ thể cần thực hiện lúc đó, như: Thành phần của đội TNXP (gồm những thanh niên bần, cố và trung nông; những thanh niên trí thức quen lao động). Điều kiện vào đội là thanh niên nam từ 18 đến 25 tuổi có đủ sức khỏe, thành phần lý lịch tốt, tự giác, tự nguyện phục vụ kháng chiến và công nhận nội qui của Đội, được tổ chức Đoàn ở cơ sở giới thiệu… Những “điều kiện” đó cho thấy được lựa chọn vào Đội TNXP là một vinh dự lớn đối với Thanh niên. Về cung cấp: Thanh niên xung phong trong đội được Đảng và Chính phủ ưu đãi như bộ đội.

 

Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc kháng chiến, bước vào chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, theo chỉ thị của Bác, lực lượng TNXP đã phát triển tới hàng vạn người, bao gồm 8 đội là 34, 36, 38, 40, 42, 44, 46, 48 và chia thành 50 đại đội, hoạt động ở khắp các khu Việt Bắc, Tây Bắc và một số nơi thuộc Liên khu 3, 4. Sự phát triển đó cũng khiến Bác thấy phấn khởi và Bác còn đặt tổ chức quân đội và tổ chức TNXP ngang hàng nhau.

 

Trong bài báo “Đoàn Thanh niên xung phong” đăng báo Nhân Dân 9-6-1954, Bác viết: “Nhờ lựa chọn cẩn thận và giáo dục chu đáo, lại được Đảng săn sóc cho nên Đoàn Thanh niên xung phong tuy mới xây dựng nhưng đã có những thành tích khá”. “… Đó là vinh dự lớn mà cũng là một trách nhiệm to; anh em phải cố gắng hơn nữa để tiến bộ hơn nữa”.

 

Cuối năm 1953, Bộ Chính trị TƯ Đảng quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, quyết tâm tập trung lực lượng đập tan Tập đoàn cứ điểm lớn nhất của giặc Pháp.

 

Chiến dịch đòi hỏi một lực lượng lớn quân đội, dân công, TNXP và nhiều vũ khí, lương thực…, trong khi đó khó khăn lớn nhất là làm sao để cung cấp đầy đủ và kịp thời mà chủ yếu là vấn đề đường sá. Vì vậy, lực lượng TNXP lúc này là một trong những lực lượng xung kích chủ yếu. Hơn 1 vạn TNXP đã được huy động phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ để bám sát bộ đội tiếp tế súng đạn, cáng tải thương binh, thu dọn chiến trường, mở đường, rà phá bom mìn, đảm bảo giao thông… Thực tế cho thấy lực lượng TN XP đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cùng với các lực lượng khác, góp phần to lớn vào chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Chính vì vậy ngay sau chiến dịch, Bác Hồ đã gửi thư khen ngợi và động viên bộ đội, dân công, TNXP và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Chỉ tính riêng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đoàn TNXP Trung ương đã được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất; 60 cán bộ, chiến sĩ TNXP khác được tặng thưởng Huân chương các loại; Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ TNXP được tặng Bằng khen…

 

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy gian khổ, hy sinh, lực lượng TNXP hơn bao giờ hết, luôn tỏ rõ là một lực lượng xung kích và thể hiện đầy đủ phẩm chất anh hùng của thanh niên Việt Nam.

 

Đế quốc Mỹ, bằng nhiều thủ đoạn nham hiểm và tập trung lực lượng lớn phương tiện chiến tranh hiện đại, đã thực hiện đánh phá rất ác liệt toàn bộ hệ thống giao thông trên các tuyến đường từ Bắc vào Nam nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam.

 

Cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ trên miền Bắc ngày càng ác liệt hơn, lực lượng sẵn có của bộ đội công binh và cán bộ nhân viên ngành GTVT không thể đảm đương được yêu cầu khẩn trương, cấp bách của nhiệm vụ chiến đấu. Do vậy, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thường trực Hội đồng Chính phủ và Bác Hồ đã quyết định thành lập lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước tập trung. Hàng vạn thanh niên, cả nam và nữ đã được tập hợp và xây dựng thành các đơn vị TNXP. Chỉ tính trong nhiệm kỳ I (từ 1965-1968), đã có hơn 7 vạn TN XP - Có thể nói trên khắp mọi tuyến đường chiến lược, đường vòng, đường tránh, ở đâu có bom đạn, có đường sá, cầu cống… là ở đó có lực lượng TNXP.

 

Ngày 12-7-1965, Bác đã trực tiếp nghe TƯ Đoàn báo cáo tình hình tổ chức và tình hình nam nữ thanh niên tham gia TNXP. Bác đã hỏi rất kỹ về việc giải quyết chế độ chính sách cho TNXP, đặc biệt là đối với TNXP là nữ. Bác lo công việc nặng nhọc, vất vả và cuộc sống khó khăn gian khổ nơi bom đạn ác liệt sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe và tương lai hạnh phúc của chị em. Sự quan tâm của Bác thật sâu sắc, thật chân tình.

 

Chính vì vậy, thực hiện ý kiến của Bác, tới nhiệm kỳ II và nhiệm kỳ III của TNXP, tuổi nữ thanh niên vào TNXP rút xuống 25, rồi 22.

 

Không những thế, Bác còn thường xuyên gửi thư khen ngợi và động viên TNXP; Bác cũng nhắc Trung ương Đoàn phải thường xuyên báo cáo với Bác về hoạt động của TNXP, nhất là những thành tích, để Bác khen thưởng.

 

Ngày 26-9-1966, sau một năm lực lượng TNXP hoạt động, cũng là lúc giặc Mỹ đánh phá ác liệt hơn, Bác đã gửi thư khen ngợi TNXP. Trong thư Bác viết: “Bác rất vui lòng khen ngợi các cháu thanh niên gái và trai đang cố gắng vượt mọi khó khăn, gian khó lập nhiều thành tích.

 

Bác mong các cháu đoàn kết chặt chẽ, dũng cảm lao động và chiến đấu, giữ gìn sức khỏe, cố gắng học tập, lập nhiều thành tích chống Mỹ, cứu nước để xứng đáng là thanh niên anh hùng của dân tộc anh hùng”(3)

 

Đặc biệt, ngày 12-1-1967, Đại hội thi đua các đội TNXP chống Mỹ cứu nước tập trung đã khai mạc tại Hà Nội. Mặc dù máy bay Mỹ tăng cường đánh phá thủ đô Hà Nội, chiến tranh ngày càng ác liệt hơn, nhưng Bác vẫn đến dự với Đại hội. Đó là một vinh dự lớn, sự cổ vũ đặc biệt đối với lực lượng TNXP. Tại Đại hội, Bác nói: “Bác rất vui lòng với thanh niên Việt Nam Anh hùng”. Tình cảm của Bác dành cho TNXP thật sâu nặng!

 

Bước sang năm 1969, tình hình sức khỏe của Bác đã kém. Dù vậy và bận bao công việc, Bác vẫn dành cho TNXP những tình cảm quí báu. Khi phát hiện thấy Đại hội TNXP 333 (phần lớn là nữ), xông pha, suốt nhiều tháng trời ở trọng điểm ác liệt cầu Cấm - Nghệ An, Bác đã gửi thư khen. Bác viết: “Suốt bốn năm nay, đội TNXP 333 nhận nhiệm vụ làm đường, sửa cầu ở một nơi địch thường đánh phá ác liệt, có nhiều khó khăn gian khổ. Đội gồm phần lớn các cháu gái, đã dũng cảm chiến đấu, tích cực lao động, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, bảo đảm cầu đường được thông suốt luôn…”.

 

Thư của Bác, tình cảm và sự quan tâm của Bác đã khiến TNXP trong đội 333 nói riêng và TNXP toàn lực lượng nói chung rất cảm động và càng hăng hái hơn trong thực hiện nhiệm vụ đầy gian khổ, hy sinh.

 

Thật không ngờ đó lại là bức thư cuối cùng của Bác gửi TNXP trước lúc Người đi xa.

 

Và, trong di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Bác đã viết rằng: “...Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang và Thanh niên xung phong đều được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.

 

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện có kết quả những chính sách, chế độ đối với TNXP, góp phần động viên, cổ vũ toàn dân hăng hái lao động sản xuất, học tập, quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

 

Ban Biên soạn

 

(1) Trích bài viết “Đội Thanh niên xung phong” của Bác Hồ - Báo Nhân dân số 147 ngày 11-15/11/1953.

 

(2) Tài liệu lưu trữ của Hội đồng khoa học lịch sử Đoàn - Đội - TƯ Đoàn.

 

(3) Trích thư của Bác gửi TNXP chống Mỹ cứu nước.

 

Kim Yến (st)


   

Thanh niên xung phong với bài thơ nổi tiếng của Bác Hồ căn dặn thanh niên

 

Đội Thanh niên xung phong (TNXP) công tác Trung ương đầu tiên - Tiền thân của lực lượng TNXP sau này, được thành lập ngày 15 tháng 7 năm 1950 theo chỉ thị của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch. Ngay sau khi ra đời, Đội đã được giao nhiệm vụ phục vụ chiến dịch Biên Giới. Buổi ban đầu còn bao bỡ ngỡ và khó khăn, nhưng Đội đã vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tiếp sau đó, Đội được giao nhiệm vụ bảo vệ tuyến đường quan trọng: Cao Bằng – Bắc Kạn – Thái Nguyên trong lúc địch đánh phá ngày càng ác liệt. Trong Đội có Liên phân đội 312 được giao nhiệm vụ bảo vệ cầu Nà Cù (thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn), trên tuyến đường từ thị xã Bắc Kạn đi Cao Bằng. Đó là một vị trí mà máy bay địch thường xuyên bắn phá và mùa mưa cũng luôn bị đe dọa bởi nước lũ...

 

Vào đêm 20 tháng 3 năm 1951, thời tiết vẫn còn rét đậm, tại cánh rừng Nà Cù, Liên phân đội 312 của Đội TNXP công tác Trung ương tổ chức lửa trại, khi có một đoàn khách tới thăm, anh chị em cứ ngỡ là Đoàn khách của đồng chí Trần Đăng Ninh (Chủ nhiệm Tổng cục cung cấp lúc đó) như đã được báo trước. Mọi người đều vỗ tay và “Hoan hô đồng chí Trần Đăng Ninh”. Nhưng sau đó, tất cả đều sững sờ trước niềm hạnh phúc bất ngờ và lớn lao: Bác Hồ đến thăm đơn vị! Nhiều tiếng reo khe khẽ trong hàng ngũ: “Bác Hồ! Bác Hồ”. Thật là một niềm vui quá lớn mà chỉ trước đó ít phút, chưa ai dám nghĩ tới. Bác vẫn giản dị với bộ quần áo bà ba màu nâu, với chiếc khăn quàng cổ che kín cả chòm râu...

 

Đến thăm anh chị em TNXP, Bác tươi cười, âu yếm nhìn mọi người rồi giơ tay ra hiệu:

 

- Các cháu ngồi cả xuống.

 

Những lời đầu, Bác ân cần hỏi thăm về tình hình đời sống của đơn vị. Bác nói:

 

- Các cháu ăn uống có đủ no không?

 

- Các cháu có đủ muối ăn không?

 

- Quần áo, chăn màn, thuốc phòng bệnh, chữa bệnh có đủ không?

 

TNXP p3  anh 1
Liên phân đội TNXP 312 thuộc Đội TNXP công tác Trung ương
 tại Nà Cù - Bắc Kạn tháng 5/1951 Ảnh: T.L

 

Sau mỗi câu hỏi của Bác, mọi người đều đáp lại: “Thưa Bác, có ạ”; “Thưa Bác, đủ ạ!”... Nhưng, Bác chỉ cười hiền hậu; Bác biết rõ là những thứ đó còn thiếu thốn nhiều mà anh em TNXP nói chỉ là để cho Bác yên lòng mà thôi!

 

Sau đó, Bác lại hỏi:

 

- Các cháu có biết Đảng Lao động Việt Nam không?

 

- Thưa Bác có ạ! – Mọi người đồng thanh đáp.

 

Rồi Bác hỏi tiếp:

 

- Đảng Lao động Việt Nam và Đảng cộng sản Đông Dương khác nhau ở điểm nào?

 

Có người được Bác trực tiếp “kiểm tra”, trả lời có vẻ lúng túng.

 

Còn Bác, bằng những lời ngắn gọn, súc tích, Người đã truyền đạt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ II mới họp, về việc đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam.

 

Bác còn ân cần nhắc nhở mọi người:

 

- Lần sau cái gì không biết, các cháu phải nói không biết. Không biết mà nói biết là giấu dốt. Liền sau đó Bác đột ngột hỏi tiếp:

 

- Đào núi có khó không?

 

Người thì trả lời là khó, người lại nói là không khó... với tâm trạng không yên lòng.

 

Nghe xong, Bác chưa kết luận ngay mà hỏi thêm:

 

- Có ai dám đào núi không?

 

Một đội viên nữ được Bác chỉ định, đã mạnh dạn thưa:

 

- Thưa Bác có ạ... TNXP chúng cháu hàng ngày vẫn đào núi để đảm bảo giao thông đấy ạ!

 

Bác cười và bảo:

 

- Đào núi, nói không khó là không đúng. Khó nhưng con người vẫn dám làm và

 

làm được. Chỉ cần cái gì?

 

Và mọi người trong đơn vị như đã bình tĩnh hơn, thi nhau giơ tay xin trả lời Bác:

 

“Cần quyết tâm cao”, “Cần kiên gan bền chí”, “Cần vượt khó vượt khổ”... Nghe xong, Bác động viên: Các cháu trả lời đều đúng cả. Tóm lại việc gì khó mấy cũng làm được,  chỉ cần quyết chí. Tục ngữ có câu: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Để ghi nhớ buổi nói chuyện của Bác hôm nay, Bác tặng các cháu mấy câu thơ:

 

Không có việc gì khó

 

Chỉ sợ lòng không bền

 

Đào núi và lấp biển

 

Quyết chí ắt làm nên.

 

Đọc xong câu thơ, Bác còn bảo mọi người nhắc lại...

 

Bài thơ nổi tiếng của Bác Hồ căn dặn thanh niên được ra đời như thế đó – tự nhiên, đầy hứng khởi và cũng thật đằm thắm vô cùng; giản dị mà sâu sắc vô cùng. Bài thơ tâm niệm ấy của Bác, suốt hơn nửa thế kỷ qua, đã trở thành nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với bao thế hệ thanh niên Việt Nam vượt mọi gian khổ, hy sinh, làm nên những chiến công oanh liệt trong các cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động xây dựng non sông đất nước.

 

Lực lượng TNXP tự hào được đón nhận lời dạy quý giá ấy của Bác ngay từ những ngày đầu thành lập. Vinh dự ấy thật lớn lao; Kỷ niệm ấy mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang của lực lượng TNXP Việt Nam.

 

Ngọc Thúy

 

Bác Hồ thăm C270 (Đội TNXP 36) Những kỷ niệm còn mãi với thời gian

 

Đại đội 270 thuộc Đội TNXP 36 có nhiệm vụ mở đường và sửa chữa đường phục vụ cho các chiến dịch, trong đó có chiến dịch Điện Biên Phủ.

 

Hôm đó là ngày 7/4/1954, toàn đại đội làm việc trên đoạn đường từ Đèo Muồng (Thái Nguyên) tới gần Keo Náng (sang đất Tuyên Quang). Ở lại lán của đơn vị nằm sâu trong rừng chỉ còn một số người gồm anh nuôi, một tiểu đội và 03 đồng chí nữa bị ốm.

 

Trong đó có đại đội phó Lê Hùng Ca.

 

Giữa lúc một số anh em đang sửa chữa lại lán trại thì một bất ngờ lớn đã tới: Bác Hồ đến thăm! Lúc đầu anh em chưa biết. Mãi sau đại đội phó Lê Hùng Ca mới nhận ra.

 

Anh cố nén cảm xúc, nhưng rồi khi Bác đi tới gần, anh lại bật ra thành tiếng: Bác Hồ đến thăm, các đồng chí ra chào Bác đi!

 

Mọi người đều cảm thấy ngỡ ngàng, như không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa.

 

Bởi hạnh phúc đến với họ bất ngờ quá!

 

Giờ thì Bác đã đứng trước mặt anh em TNXP C270 rồi. Bác giản dị quá... Chưa ai kịp trấn tĩnh, Bác đã hỏi mọi người với giọng trầm ấm, thân mật như ông cháu trong nhà trò chuyện với nhau vậy:

 

- Các cháu ở đâu về đây? Đơn vị đi đâu cả rồi?

 

- Dạ thưa Bác, anh em ra mặt đường làm rồi ạ. Chúng cháu từ Thanh Hóa ra đây đã gần nửa năm… - C phó Lê Hùng Ca báo cáo với Bác như vậy.

 

Bác lại nói:

 

- Các cháu cho Bác biết anh em ăn uống thế nào, có đủ no không, đã quen nếp sống, nếp sinh hoạt tập thể chưa, có bị ốm đau nhiều không?

 

- Dạ, no đủ lắm ạ! Sinh hoạt văn nghệ cũng vui lắm ạ. Hiện tại chỉ có… ba người ốm thôi ạ.

 

Nghe xong, Bác nói luôn:

 

- À cháu giỏi…

 

Lê Hùng Ca ngạc nhiên quá và không tin vào tai mình nữa. Bác khen ư?

 

- Bác nói vui thôi! Cháu giỏi là giỏi nói dối…

 

C phó Lê Hùng Ca trở nên bối rối, anh cảm thấy ân hận đã để Bác phiền lòng.

 

Nhưng rồi Bác nhìn mọi người một cách trìu mến và nói, đại ý rằng:

 

- Các cháu có đồng ý với Bác không nào? Các cháu đang sức ăn sức lớn, lao động cực nhọc, chưa thể gọi là “no đủ lắm” được. Đúng không? Nhân dân ta còn nghèo, rất nghèo, lại đang phải dốc sức người sức của cho tiền tuyến. Bác cháu ta được ăn no, ăn đủ là đã tốt lắm rồi. Chứ nói như cháu: Đã no, đủ lại còn “lắm” nữa thì chưa phải. Ai trong lúc dân ăn chưa no mà đã “no đủ lắm rồi” là có tội với dân. Tội càng nặng, nếu do đục khoét của dân mà no đủ…

 

Lời Bác nhẹ nhàng mà thấm thía tận tâm can. Ai cũng cảm động. Riêng Lê Hùng Ca, anh cứ ân hận vì đã nói quá lên một chút để Bác không vui… Đang lúc tâm lý anh như vậy thì Bác chỉ tay vào anh và hỏi:

 

- Cháu tên gì? Có phải là chỉ huy không?

 

- Dạ, cháu tên Ca và làm Đại đội phó ạ.

 

- Tốt. Cháu nói dối, nhưng vì động cơ muốn có lợi không phải cho riêng mình thì không có lỗi. Cháu nói với ý muốn để Bác vui lòng phải không? Bác biết cuộc sống của các cháu còn nhiều khó khăn, thiếu thốn…

 

Nghe Bác nói, Lê Hùng Ca thấy nhẹ lòng hơn. Vậy là Bác đã hiểu tất cả. Anh không còn thấy buồn phiền vì lỡ nói “dối” Bác.

 

Ngay sau đó, cậu Tiệp cấp dưỡng lại thưa với Bác cả cái chuyện một nửa con lợn đơn vị ướp muối để dành ăn dần, ban đêm đã bị hổ vào “quắp” đi mất (Ai cũng tiếc).

 

Nghe được chuyện đó, Bác hiền từ nhìn mọi người rồi nói:

 

- Cháu này nói thế là tốt. Bác sẽ đề nghị trên Đội, trên Đoàn cố gắng bù cho các cháu số thịt “ông ba mươi” đã lẻn vào ăn trộm tiêu chuẩn của anh em…

 

Mọi người ai cũng hân hoan vì Bác quan tâm chu đáo quá.

 

Bác còn căn dặn mọi người:

 

- Đơn vị các cháu phải bám đường theo tiến độ thi công nên di chuyển luôn. Nhưng vẫn phải cố gắng tranh thủ tăng gia, chăn nuôi, nhất là trồng rau ven các suối. Giảm bớt chặt phá măng rừng. Đi chưa kịp thu hái thì để lại cho dân cũng tốt. Tiện hôm nay Bác rẽ qua đây, các cháu có nhiệm vụ truyền đạt lại ý Bác tới toàn đơn vị. Bác mong các cháu ra sức thi đua sao cho không chỉ tăng năng suất trên mặt đường mà luôn nâng cao đời sống tinh thần, văn nghệ; Các cháu có thay mặt đơn vị hứa với Bác không?

 

Tất cả anh em có mặt đều đồng thanh hứa với Bác:

 

- Thưa Bác, chúng cháu xin hứa ạ!

 

…Sau lần được Bác đến thăm ấy, C phó Lê Hùng Ca và anh em đã báo cáo và kể lại toàn bộ sự việc cho chỉ huy và anh em toàn đơn vị nghe. Ai cũng cảm động và tự hào được Bác quan tâm thăm nom, chỉ dạy nhiều điều.

 

Đơn vị C270 đã phát động thi đua làm theo lời dạy của Bác lập thành tích kỷ niệm sinh nhật Bác, ngày 19/5 ngay sau đó. Các A, các B trong toàn đại đội đã làm việc hăng hái, sôi nổi, năng suất lao động liên tục được nâng cao, từ 120, rồi 130, 150 lên đến 170%...

 

Chỉ mấy ngày sau khi Bác ghé thăm, C270 đã nhận được một thùng mỡ Bác gửi - Đó là món quà thật đặc biệt, cũng để thay cho nửa con heo đã mất mà Bác hứa bù lại từ hôm Bác đến thăm.

 

Với mỗi đội viên C270, kỷ niệm ngày Bác tới thăm đơn vị sống mãi với thời gian, với mỗi cuộc đời.

 

Ngọc Anh (Biên soạn)

 

“Ra đời trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Pháp, theo tư tưởng lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò và tính chất của TNXP là những người trẻ tuổi đi đầu, sẵn sàng vượt qua mọi gian khổ, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân được thể hiện rõ rệt trong mọi nhiệm vụ được giao. Không phải chỉ có sự gan dạ, tinh thần lao động bền bỉ mà còn phải nói đến những sáng kiến, những suy nghĩ táo bạo và lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc đã giúp cho TNXP lập nên những kỳ tích, xứng đáng là lực lượng mũi nhọn trên các trận tuyến khó khăn nhất của đất nước suốt 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, thể hiện được khí phách và tinh hoa của dân tộc Việt Nam”.

(Trích phát biểu của Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại cuộc mít tinh kỷ niệm 45 năm Ngày truyền thống lực lượng TNXP - 1995)

 

TNXP p3  anh 2
Cán bộ, đội viên Đại đội TNXP 333 của Đường sắt Nghệ An
đơn vị được Bác Hồ gửi thư khen ngày 27/1/1969 Ảnh: T.L

 

Bác Hồ gửi thư khen Đại đội 333 - Thanh niên xung phong

 

Đơn vị TNXP mang tên 333 được thành lập cuối năm 1965. Buổi đầu đơn vị có 137 đội viên; trong đó gần 100 chị em gái tuổi đời từ 18 đến 20.

 

Trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại ác liệt của không quân Mỹ, đơn vị đã từng lặn lội mở đường, san lấp hố bom, bắc cầu trên các tuyến đường ác liệt 15A, 34 và mạng đường xương cá nối đường chiến lược 15A và 49…; ở đâu đơn vị 333 cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

 

Cuối năm 1966, đơn vị được chuyển sang công tác tại đội 69 đường sắt trên địa bàn trọng điểm đánh phá của địch là Cầu Cấm (Nghi Lộc - Nghệ An). Đây là cây cầu dài gần trăm mét, bắc qua con sông Cấm, nước hàng ngày lên xuống theo thủy triều: Nếu máy bay Mỹ đánh sập được cầu thì chẳng những đường bộ, đường sắt Bắc Nam bị chặt đứt mà đường vận tải thủy từ biển lên, từ kênh nhà Lê vào cũng bị ách tắc. Do vậy cầu Cấm được ví là “xương sống” và cũng là “túi đựng bom đạn” ở khu vực này.

 

Đại đội 333 thường được trên giao những đoạn đường khó khăn nhất, không chỉ gian khổ mà cái chết luôn rình rập, kề bên. Nhưng anh chị em trong đơn vị vẫn không sợ, họ còn coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Để phá bom nổ chậm, các anh có sáng kiến đào hầm ở hai phía đoạn đường có bom từ trường rồi kéo thùng phuy hoặc thanh sắt qua lại để kích nổ. Nếu làm quá xa thì dây dài, nặng và vướng mắc nên các anh thường lợi dụng hố bom, hố pháo gần nhất. Bom nổ khói đen trùm lên người; tan khói đã thấy tiếng cười nổi lên.

 

Theo thống kê của đài quan sát, trong năm 1968 địch đã đánh vào trận địa cầu Cấm 881 trận với 27 ngàn quả bom các loại và trên 5000 quả đạn pháo từ Hạm đội bảy bắn vào. Hố bom, hố pháo chồng lên nhau.

 

Trước sự đánh phá ác liệt của kẻ thù, Đại đội 333 vẫn kiên cường bám trụ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

 

Một vinh dự lớn của đơn vị là đã được Bác Hồ gửi tặng lẵng hoa và viết thư khen ngợi. Thư Bác viết ngày 27/1/1969, có đoạn ghi rõ: “Các cháu xứng đáng là những thanh niên ưu tú của nhân dân Việt Nam anh hùng. Và, giặc Mỹ đã thua to ở hai miền nước ta, chúng đang thất bại ngày càng nặng nề hơn ở miền Nam, nhưng chúng vẫn rất ngoan cố chưa chịu từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Vì vậy Bác nhắc nhở các cháu: Phải nêu cao ý chí chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng cùng quân dân ta quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược; luôn luôn đoàn kết, ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa để ngày càng tiến bộ, đem hết nhiệt tình tài năng của tuổi trẻ cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước…”

 

Lời Bác viết trong thư đã được anh em trong đơn vị đọc đi đọc lại nhiều lần, đã thấm vào tâm can mọi người và cũng từ đó không ai bảo ai, tất cả đơn vị đều có ý thức mình là đơn vị 333, thực hiện thật tốt nhiệm vụ, sao cho xứng đáng với lời khen của Bác. Đơn vị chẳng những hoàn thành chỉ tiêu công việc mà trong cuộc sống cũng ấm áp, chan hòa tình đồng đội. Chị em còn chép vào sổ tay lời thư của Bác, nhiều người học thuộc lòng.

 

Lá thư Bác gửi đã trở thành tài sản vô giá, thành sức mạnh không chỉ của đại đội 333 mà còn để thanh niên thực hiện lý tưởng của mình - Lý tưởng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội phồn vinh.

 

Minh Nguyệt

 

“Đã là Anh hùng thì phải cố gắng tiến lên nữa... Chưa là Anh hùng thì phải cố gắng phấn đấu trở thành Anh hùng”(1) (Trích bài nói của Bác Hồ tại Đại hội Thi đua các đội TNXP chống Mỹ, cứu nước ngày 12-1-1967)

 

“Bác rất vui lòng với thanh niên Việt Nam anh hùng.

 

Việt Nam càng ngày càng anh hùng, càng đánh càng anh hùng.

 

Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua lần thứ nhất (1952) chúng ta mới có 7 người được tuyên dương là Anh hùng. Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua lần thứ hai có 95 Anh hùng. Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua lần thứ ba có ít Anh hùng hơn. Đại hội thứ tư lần này có 111 Anh hùng. Thế là ngày càng nhiều Anh hùng.

 

Trong số 111 Anh hùng vừa được tuyên dương ở Đại hội, có 44 Anh hùng là thanh niên. Bác càng vui lòng hơn nữa là trong 44 Anh hùng là thanh niên, có 12 Anh hùng là thanh niên gái. Thế là ngày càng có nhiều Anh hùng và ngày càng có nhiều thanh niên gái trở thành Anh hùng.

 

TNXP p3  anh 3
Bác Hồ nói chuyện tại Đại hội chiến sĩ thi đua của TNXP chống Mỹ, cứu nước (1967) Ả nh: T.L

 

Bác nhắc các cháu một điều. Điều này Bác đã nói, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng đã nói; nói hai ba lần rồi, bây giờ Bác nhắc lại: Nhờ đâu mà chúng ta trở thành Anh hùng? Nhờ có Đảng giáo dục, có Đoàn giúp đỡ, có nhân dân bồi dưỡng cho nên chúng ta mới có Anh hùng. Anh hùng ấy không phải là Anh hùng của một cá nhân. Vì dân tộc ta Anh hùng, nước ta Anh hùng, nhân dân ta Anh hùng, Đảng ta Anh hùng, cho nên mới nảy sinh nhiều đơn vị và nhiều người Anh hùng. Vì vậy, những đơn vị và người được tặng danh hiệu Anh hùng trước đây đã có cố gắng, nay lại phải khiêm tốn học tập và cố gắng hơn. Các cháu nào đã là Anh hùng thì phải cố gắng tiến lên nữa, các cháu nào chưa là Anh hùng thì cố gắng phấn đấu để trở thành Anh hùng”.

 

Biên niên sử về Bác Hồ đối với Thanh niên xung phong

 

Bác Hồ là người sáng lập tổ chức TNXP, Bác đã hết lòng chăm lo tổ chức, giáo dục TNXP, Người coi tổ chức TNXP là đội quân xung kích của Cách mạng, là một trong ba trường học lớn và tốt của thanh niên.

 

Suốt cả cuộc đời, dù bận trăm công nghìn việc, nhưng bao giờ Bác cũng giành một phần tình cảm của Bác để chăm sóc thế hệ trẻ với tấm lòng của người cha chăm sóc con, người ông chăm sóc cháu.

 

Qua biên niên sử về Bác Hồ đối với TNXP, chúng ta thấy rất rõ tư tưởng chiến lược nói trên của Bác.

 

Ngày 15 tháng 7 năm 1950: Thành lập lực lượng TNXP.

 

Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chuyển sang giai đoạn mới, để phát huy vai trò xung kích cách mạng của thanh niên đối với cuộc kháng chiến, Bác chủ trương thành lập Đội TNXP công tác đầu tiên của Việt Nam. Đội gồm 225 đội viên nam nữ, làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, súng đạn, sửa chữa cầu đường, phục vụ chiến dịch Cao Bắc Lạng.

 

Bác giao cho Trung ương Đoàn thanh niên cứu quốc lúc bấy giờ trực tiếp tổ chức và lãnh đạo Đội TNXP công tác.

 

Ngày 15/7/1950 là ngày Ban Thanh Vận Trung ương họp ra quyết định thành lập Đội TNXP công tác đầu tiên. Và ngày 15/7 hàng năm đã trở thành ngày truyền thống của TNXP.

 

Ngày 20 tháng 3 năm 1951

 

Khi đi kiểm tra công tác cầu đường ở các tỉnh Việt Bắc, Bác đến thăm phân đội TNXP 312 thuộc liên đội 3 đơn vị TNXP đang làm đường tại khu vực cầu Nà Cù (Bắc Cạn).

 

Tại đây trong khi nói chuyện với TNXP, Bác ứng khẩu tặng TNXP 4 câu thơ nổi tiếng:

 

Không có việc gì khó

 

Chỉ sợ lòng không bền

 

Đào núi và lấp biển

 

Quyết chí ắt làm nên

 

Bốn câu thơ trên đã trở thành phương châm hành động của các thế hệ trẻ Việt Nam chúng ta.

 

Ngày 28 tháng 3 năm 1953

 

Sau ba năm hoạt động, các đội TNXP đã phục vụ nhiều chiến dịch, lập nhiều thành tích xuất sắc, nhưng cũng có nhiều khuyết nhược điểm về tổ chức và chỉ đạo nên chưa thực hiện đúng yêu cầu của Bác. Vì vậy Bác chủ trương chấn chỉnh lại. Bác giao cho đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác, lập ra một đội TNXP mới, lúc đầu có 261 đội viên, sau phát triển lên 850 đội viên do đồng chí Vũ Kỳ trực tiếp làm đội trưởng.

 

Ngày 15 tháng 8 năm 1953

 

Nhận thấy trên một chiến trường lại có hai đội TNXP cùng tồn tại đều làm nhiệm vụ đảm bảo giao thông phục vụ chiến dịch: Một đội do TƯ Đoàn thanh niên cứu quốc Việt Nam thành lập và trực tiếp lãnh đạo; Một đội do Bác giao cho đồng chí Vũ Kỳ thành lập trực thuộc Chính phủ, Bác chủ trương thống nhất lại và giao cho đồng chí Nguyễn Văn Trân, đại diện Hội đồng cung cấp mặt trận, triệu tập các đồng chí lãnh đạo của hai đội để bàn và đã nhất trí hợp nhất hai đội, lấy tổ chức TNXP do Bác chỉ đạo thành lập làm “mẫu” đặt tên mới là Đoàn TNXP Trung ương, ký hiệu XP, do đồng chí Vũ Kỳ làm đoàn trưởng.

 

Ngày 15 tháng 11 năm 1953

 

Bác viết bài báo nhan đề: “Đội TNXP”, đăng báo Nhân Dân số 147 từ ngày 11- 15/11/1953 với bút danh CB.

 

Trong bài báo Bác khen ngợi “Cán bộ, đội viên đã có thành tích về phục vụ chiến dịch và công tác cầu đường” và Bác nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của Đội TNXP là xung phong mọi việc, bất kỳ việc khó, việc dễ và phục vụ cho đến kháng chiến thành công. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang của TNXP”.

 

Ngày 30 tháng 4 năm 1954

 

Bác lại viết bài báo nhan đề: “Những trường học lớn và tốt” (đăng báo Nhân dân số 180 từ ngày 26-30/4/1954, lấy bút danh CB).

 

Nội dung có đoạn viết: “Để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, cần một số cán bộ thật nhiều và thật tốt, toàn tâm, toàn lực phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”.

 

Đội TNXP là một trong ba trường học lớn và tốt ấy. Bác viết: “Những trường học ấy vừa huấn luyện, vừa thử thách cán bộ. Nếu ai không chịu nổi thử thách trước sự kiểm tra nghiêm khắc và công bằng của quần chúng thì người ấy chỉ tự trách mình. Nếu ai thắng lợi trong cuộc thử thách thì chắc chắn thành người cán bộ tốt, cần cho kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công”.

 

Ngày 8 tháng 5 năm 1954

 

Sau Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, ngày 8/5/1954 Bác gửi thư khen ngợi bộ đội, chiến sỹ dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm trọn nhiệm vụ một cách vẻ vang.

 

Bác nhắc nhở cán bộ, chiến sỹ, TNXP, dân công và nhân dân không được vì thắng lợi mà kiêu, chủ quan khinh địch, Bác nhấn mạnh: “Cuộc chiến tranh còn phải trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn”.

 

Ngày 9 tháng 6 năm 1954

 

Bác lại viết bài “Đoàn TNXP” đăng báo Nhân Dân số 194 từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 6 năm 1954, bút danh CB.

 

Trong bài này Bác vừa khen ngợi thành tích vừa phê bình khuyết điểm của TNXP, Bác viết:

 

TNXP p3  anh 4
Bên bờ suối trong rừng sâu Việt Bắc, Bác Hồ kính yêu đang chăm chú
 nghe đồng chí Vũ Kỳ báo cáo về công tác TNXP Ảnh: T.L

 

“Nhờ lựa chọn cẩn thận và giáo dục chu đáo, lại được Đảng săn sóc cho nên Đoàn TNXP tuy mới xây dựng, nhưng đã có thành tích khá”. Bác cũng nhắc nhở một số cán bộ, đội viên còn có khuyết điểm: “Thích làm những việc gì oai, còn cho công việc cầu đường, công việc ở cơ quan là tầm thường quá. Thậm chí khi làm những việc ấy thì sợ xấu”.

 

Ngày 10 tháng 2 năm 1955

 

Bác viết bài “Đồng bào, dân công và TNXP” đăng báo Nhân Dân số ra ngày 10/2/1955.

 

Bài báo có đoạn viết: “Các đội TNXP Bắc Giang và Bắc Ninh trên công trường khôi phục đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan đã thực sự xung phong tăng năng suất gấp 5 và gấp 11 lần.

 

Thế là đồng bào, dân công và TNXP đã dùng cách thiết thực đẩy mạnh công tác hàng ngày để chống âm mưu đế quốc Mỹ phá hoại Hòa Bình.

 

Dân ta hăng hái thi đua

 

Âm mưu của Mỹ chắc thua bẽ bàng”.

 

Ngày 16 tháng 5 năm 1955

 

Sau ngày Giải phóng Thủ đô, để tham gia công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục các tuyến đường sắt, Đội TNXP thủ đô đầu tiên được thành lập (21/3/1955) gồm 350 Thanh niên lên đường khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai. Chưa đầy 2 tháng sau do đội lập được nhiều thành tích, Bác Hồ đã viết bài: “Đội TNXP Thủ đô” đăng báo Nhân Dân số ra ngày 16/5/1955 bút danh: CB.

 

Bài báo có đoạn viết: “Người ta thường nói: Thanh niên các thành thị, nhất là ở Hà Nội chỉ ham trau chuốt, thích chơi bời, ít hoạt động. Có một ít thanh niên như thế thật. Nhưng khi được tổ chức giáo dục và lãnh đạo thì thanh niên rất hăng hái hoạt động”.

 

Sau khi điểm lại hoạt động của thanh niên Thủ đô trong cách mạng tháng 8, trong kháng chiến bảo vệ Thủ đô, trước và sau tiếp quản Thủ đô, Bác kết luận:

 

“Ngày nay đội TNXP thủ đô là một tập thể lao động gương mẫu trên công trường đường sắt Vĩnh Phúc trong đợt thi đua từ 8/4 đến 23/4/1955 họ đã thi đua đạt nhiều thành tích. Họ còn giúp đồng bào địa phương gánh nước tưới ruộng, làm vệ sinh.

 

Thế là đội TNXP đã đưa lại vinh quang cho Thủ đô”.

 

(Trích trong cuốn Hồ Chí Minh về GTVT
Nhà xuất bản GTVT Hà Nội 1990, trang 83-85)

 

Ngày 1 tháng 5 năm 1963

 

Bác gửi thư cho đoàn viên, thanh niên ở Công trường đường sắt Thanh Hóa, Nghệ An. Trong thư có đoạn viết:

 

“Trong kế hoạch 5 năm, Đảng và Chính phủ đã quyết định xây dựng lại đường sắt Thanh Hóa - Nghệ An.

 

Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động đã thay mặt các cháu mà nhận công trường đó và xin đặt tên là “Công trường đường sắt Thanh niên”.

 

Các cháu đã xung phong tình nguyện làm việc đó, thế là các cháu đã làm đúng khẩu hiệu: “Đâu Đảng cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Như thế là tốt.

 

Bác tặng các cháu lá cờ làm giải thưởng luân lưu và chúc các cháu:

 

- Vui vẻ mạnh khỏe

 

- Hăng hái thi đua

 

- Giành nhiều thành tích”

 

Ngày 1 tháng 5 năm 1964

 

Bác gửi điện cho công nhân, thanh niên, cán bộ làm đường xe lửa Thanh Hóa, Vinh.

 

Bác viết:

 

“Các cháu TNXP Thanh Nghệ đã căn bản làm xong con đường xe lửa Thanh Hóa, Vinh.

 

Các cháu công nhân và cán bộ đã căn bản bắc xong cầu Hàm Rồng, như thế là tốt.

 

Nhân dịp ngày 1/5, Bác thân ái gửi lời khen ngợi công nhân, cán bộ và các cháu Thanh niên, chúc các cháu tiếp tục thi đua để giành thành tích to lớn và nhiều hơn nữa”.

 

Ngày 17 tháng 3 năm 1965

 

Bác viết bài: “Thanh niên kiểu mẫu” đăng báo Nhân Dân, bút danh CB.

 

Người viết: “Đồng chí Trịnh Minh Huyền một bần nông ở Hà Tĩnh là một người kiểu mẫu của Đoàn TNXP với thành tích: “Từ 1951 đồng chí ấy đi dân công bao giờ năng suất cũng tăng từ 200-400%. Trong chiến dịch Tây Bắc đêm nào đồng chí cũng gánh 50 cân và có nhiều sáng kiến”. Rồi Bác kết luận:

 

“Đồng chí Huyền thật xứng đáng với vinh dự là Thanh niên xung phong làm kiểu mẫu cho tất cả Thanh niên chúng ta”.

 

(Hồ Chí Minh về GTVT - NXB GTVT Hà Nội trang 81 - 82).

 

Ngày 21 tháng 6 năm 1965

 

Sau khi Hồ Chủ tịch, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định thành lập lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước tập trung để phục vụ công tác đảm bảo GTVT góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ xâm lược, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 71 ngày 21/6/1965 quyết định thành lập lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước tập trung và quy định rõ các nguyên tắc tổ chức, nhiệm vụ, chế độ chính sách và trách nhiệm các cấp, các ngành đối với TNXP. Đây là một quyết định có ý nghĩa quan trọng trong việc đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.

 

Lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước đã đóng góp công lao, thành tích to lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

 

Ngày 12 tháng 7 năm 1965

 

Chưa đầy một tháng sau khi có quyết định thành lập lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước tập trung, Bác đã nghe đồng chí Nguyễn Văn Đệ, Bí thư TƯ Đoàn, Trưởng ban chỉ đạo TNXP chống Mỹ cứu nước Trung ương, báo cáo tình hình thanh niên tham gia lực lượng TNXP. Bác nhắc nhở các cấp các ngành và Đoàn thanh niên phải quan tâm giáo dục chăm lo đời sống để thanh niên thực hiện tốt 3 nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu và học tập rèn luyện. Bác đặc biệt nhấn mạnh đến việc thực hiện chính sách đối với TNXP gái, chú ý đặc điểm riêng, có chế độ, chính sách riêng, phân công công tác hợp lý tránh ảnh hưởng đến sức khỏe, đến tương lai…

 

(Theo tài liệu lưu trữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh)

 

Ngày 26 tháng 9 năm 1966

 

Bác gửi thư khen TNXP chống Mỹ cứu nước tập trung. Trong thư Bác viết: “Bác rất vui lòng khen ngợi các cháu thanh niên gái và trai đang cố gắng vượt mọi khó khăn, gian khổ lập nhiều thành tích.

 

Bác mong các cháu đoàn kết chặt chẽ, dũng cảm lao động và chiến đấu, giữ gìn sức khỏe, cố gắng học tập, lập nhiều thành tích chống Mỹ cứu nước để xứng đáng là thanh niên anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng”.

 

Bác hôn các cháu

 

Bác Hồ

 

(Theo cuốn Tổ chức và chính sách đối với TNXP chống Mỹ, cứu nước - NXB Thanh niên 1970, trang 12)

 

Ngày 19 tháng 10 năm 1966

 

Phát biểu ý kiến tại buổi Lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Hội LHTN Việt Nam, Bác nói:

 

“Trong phong trào TNXP chống Mỹ cứu nước, nhiều cháu thanh niên gái đã nêu gương dũng cảm trong sản xuất và chiến đấu. Nhiều thanh niên gái Vĩnh Linh vừa sản xuất giỏi vừa chiến đấu giỏi. Tổ cầu đường Trần Thị Lý ở Quảng Bình và tiêu biểu là tiểu đội 9 - Đại đội 814 đã đảm bảo giao thông dưới làn bom đạn”.

 

(Hồ Chí Minh toàn tập - NXB Sự thật Hà Nội 1989, tập 10 trang 417)

 

Ngày 1 tháng 1 năm 1967

 

Tại Đại hội liên hoan Anh hùng và chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ 4 tại Hà Nội ngày 1-1-1967, Bác Hồ hết sức phấn khởi, khen ngợi cán bộ, công nhân và TNXP lập nhiều thành tích trong công tác đảm bảo GTVT quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

 

Đặc biệt Bác khen ngợi, tặng hoa và chụp ảnh riêng với nữ anh hùng TNXP Nguyễn Thị Kim Huế.

 

Ngày 12 tháng 1 năm 1967

 

Bác Hồ đến dự và nói chuyện với Đại hội thi đua của lực lượng TNXP chống Mỹ, cứu nước lần thứ nhất do TƯ Đoàn TN LĐ Việt Nam tổ chức tại Hà Nội.

 

Trong bài nói chuyện của Bác có đoạn:

 

“Bác rất vui lòng vì Thanh niên ta đã lập được nhiều thành tích tốt, xứng đáng là thanh niên anh hùng của một dân tộc anh hùng”.

 

Bác Hồ gặp mặt 10 cô gái xuất sắc nhất C9 - một tập thể nữ Anh hùng
 ngày 7/7/1968 tại Phủ Chủ tịch Ảnh: T.L

 

Sau khi nêu bật thành tích của TNXP chống Mỹ cứu nước, nêu rõ nguyên nhân đạt thành tích, nêu rõ vai trò lãnh đạo giáo dục của Đảng, của Đoàn thanh niên, Bác căn dặn:

 

“... Các cháu nào đã là anh hùng thì phải cố gắng tiến lên nữa, các cháu nào chưa là anh hùng thì cố gắng phấn đấu để trở thành anh hùng... ”.

 

Ngày 27 tháng 1 năm 1969

 

Bác gửi thư khen Đội TNXP số 333

 

Trong thư Bác viết:

 

“Suốt bốn năm nay, Đội TNXP số 333 nhận nhiệm vụ làm đường, sửa cầu ở một nơi địch thường đánh phá ác liệt, có nhiều khó khăn gian khổ.

 

Đội phần lớn là các cháu gái đã dũng cảm chiến đấu, tích cực lao động, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, bảo đảm cầu đường được thông suốt luôn.

 

Bác rất vui lòng khen ngợi các cháu.

 

Bác cũng khen ngợi tất cả các cháu TNXP đang hăng hái thi đua, công tác ở các nơi khác trên đất nước ta. Bác cũng gửi lời khen ngợi và cảm ơn đồng bào và cán bộ các địa phương đã thương yêu giúp đỡ các cháu.

 

Bác mong các cháu mạnh khỏe, vui vẻ, lập nhiều thành tích mới”.

 

Bác hôn các cháu 

 

Bác Hồ

 

Đây cũng là bức thư và lời căn dặn cuối cùng của Bác Hồ đối với TNXP trước lúc Người đi xa. Bác chu đáo, không chỉ khen Đội TNXP 333 là con cháu quê hương Bác hoạt động tại trọng điểm cầu Cấm Nghệ An, mà Bác còn khen ngợi chung lực lượng TNXP cả nước và gửi lời cảm ơn đồng bào, cán bộ nhân dân cả nước đã thương yêu giúp đỡ TNXP.

 

Nguyễn Văn Đệ (Sưu tầm)

 

(1) Đầu đề của BBT

 

Kim Yến (st)

 

Còn nữa


Đại tướng Võ Nguyên Giáp với Thanh niên xung phong

“- Thưa các anh, các chị thanh niên xung phong năm xưa, là các cụ ông, cụ bà hôm nay! Hiện có mấy đoàn bà con từ Nam Bộ ra đang đợi tôi. Nhưng trên đường đi tôi nghĩ, không đến được với các anh các chị, tức là các cụ ông cụ bà ở đây thì thật rất không hay. Vậy, tôi xin phép nói ít câu vắn thôi, từ tận đáy lòng, rồi tôi còn đi thăm bà con đồng bào đang chờ…

TNXP p4  anh 1
Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Cựu TNXP Việt Nam
mừng thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp 95 tuổi (8-2006) Ảnh: T.L

Cách nay 50 năm, Đoàn Thanh niên xung phong tập hợp, củng cố lại theo chỉ thị của Bác Hồ, do đồng chí Vũ Kỳ đứng đầu. Đoàn đã thực sự xung phong, xung phong ra mặt trận, cùng nhân dân, quân đội cả nước lập nên những chiến công hiển hách trên các mặt trận, đặc biệt là ở Điện Biên Phủ vĩ đại.

50 năm sau, hôm nay, không ai ngờ, các cụ ông cụ bà là các anh chị năm xưa – tuổi cao, chí khí càng cao, càng xung phong mạnh mẽ và chắc chắn còn mạnh mẽ hơn nữa – dù là lão, vẫn trẻ trung. Chúng ta mong các cụ tiếp tục gương mẫu, tiếp tục xung phong, quý mến nhau, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, đùm bọc nhau, đoàn kết đồng bào, cùng nhân dân và quân đội cả nước tiếp tục xung phong sáng tạo, đổi mới, lập nên những chiến tích mới trên mặt trận kinh tế văn hóa và các mặt trận khác không kém trước kia.

Hôm nay chúng ta nhớ Bác Hồ quá!

Từ tấm lòng, tôi gửi tất cả các anh các chị – nay là các cụ ông cụ bà, những lời chúc tốt đẹp nhất, tâm huyết nhất. Mong rằng các anh, các chị tiếp tục là những người lính xung phong, tuổi cao chí khí càng cao, noi gương Bác Hồ.

Năm nay cả nước kỷ niệm 113 năm Ngày sinh của Người, đặc biệt ở thành phố Vinh, nơi đây đã xây dựng tượng đài cao nhất. Hàng chục vạn nhân dân đã vào Nam Đàn viếng Bác.

Chúc các anh các chị – cụ ông cụ bà có mặt ở đây và không có mặt ở đây, các con em, các cháu (không biết có chắt chưa nhỉ?) – tất cả đều mạnh khỏe, vui vẻ, gương mẫu, tiếp tục học tập, lao động, xung phong, xung phong mãi mãi, làm cho nước Việt Nam ta đã làm nên trận Điện Biên Phủ lịch sử dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ – sẽ làm nên trận Điện Biên Phủ mới trên mặt trận kinh tế, văn hóa… để tiến kịp các nước trên thế giới…”.

(Trích bài nói của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với các cựu TNXP tiêu biểu nhân dịp kỷ niệm lần thứ 113 Ngày sinh Bác Hồ kính yêu và kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Đoàn TNXP (1953-2003)

Tình cảm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với Ngã ba Đồng Lộc

Ngã ba Đồng Lộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là một trọng điểm vô cùng ác liệt - Nơi đây, trong một thời gian dài, đặc biệt là từ sau chiến dịch tết Mậu Thân 1968, địch đã huy động tổng lực đánh phá hủy diệt nhằm ngăn cản sự chi viện của miền Bắc…

Một lần, Đại tướng Võ Nguyên Giáp xúc động kể lại: “Tôi nhớ mãi một lần đi qua Ngã ba Đồng Lộc gặp chị em TNXP đang hăng say làm việc trong đêm. Khi biết được tôi, chị em ôm chầm lấy tôi khóc nức nở:

- Bác ơi! Mời bác đi nhanh lên, kẻo máy bay địch đến thả bom, ở đây nguy hiểm lắm. Chia tay các cô, lòng tôi ngậm ngùi. Và không ngờ ít ngày sau tôi nhận được tin chính thức, các cháu gái hôm đó đã hy sinh trong trận đánh ngày 24/7/1968. Tấm gương nghĩa liệt của 10 nữ TNXP làm nhiệm vụ tại Ngã ba Đồng Lộc sẽ đời đời được Tổ quốc ghi công”.

Lời ghi tặng của Đại tướng vào bảng vàng gửi Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc viết rằng: “Trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ, Ngã ba Đồng Lộc thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh là một trọng điểm địch tập trung đánh phá vô cùng ác liệt hòng cắt đứt tuyến đường huyết mạch nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Quân và dân ta nhất là lực lượng TNXP trên trận tuyến Ngã ba Đồng Lộc đã nêu cao tinh thần chiến đấu anh hùng quyết tâm đánh thắng Chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ; dưới mưa bom bão đạn ngày đêm ác liệt vẫn thường xuyên bảo đảm thông đường thông xe ra tiền tuyến, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.

Nhiều anh hùng liệt sỹ đã ngã xuống để lại tấm gương cho các thế hệ người Việt Nam. Ngã ba Đồng Lộc trở thành một mốc son chói lọi, một địa danh lịch sử oai hùng trên con đường chiến lược Trường Sơn mang tên Bác.

Việc xây dựng Ngã ba Đồng Lộc thành Khu Di tích Thanh niên xung phong cả nước có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho nhân dân ta, đặc biệt là cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau”.

Mỗi khi có dịp đến thăm khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc, ai cũng đều cảm  kích trước tấm lòng của vị Tổng Tư lệnh tối cao quân đội đã làm nên những kỳ tích trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.

Nhân dịp 60 năm ngày Bác Hồ phong quân hàm Đại tướng cho vị Tổng Chỉ huy lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam (28/5/1948 - 28/5/2008), Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại nhớ về một địa danh lịch sử chuẩn bị kỷ niệm 40 năm chiến thắng, đó là Ngã ba Đồng Lộc (24/7/1968 - 24/7/2008); nhớ về sự hy sinh của 10 cô gái TNXP sau chuyến công tác của Đại tướng năm ấy và công lao của thế hệ trẻ. Đại tướng đã chuẩn bị một cây đa và một cây ngọc lan gửi vào trồng ở địa danh lịch sử này.

Chiều 29/5/2008, đoàn cán bộ Hà Tĩnh do ông Hà Văn Thạch, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, nguyên là Bí thư Tỉnh Đoàn Hà Tĩnh, dẫn đầu đã đến thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp và để tiếp nhận cây đa và cây ngọc lan Đại tướng gửi tặng.

Có điều thật kỳ lạ, từ sáng đến khoảng 15 giờ ngày 29/5 trời Hà Nội nắng nóng. Vậy mà khi cây đa và cây ngọc lan được chuyển ra để tặng cho Ngã ba Đồng Lộc là trời bắt đầu mưa.

Trước khi trao tặng quà quý, Đại tướng bước đến cầm lên một cành đa và cành ngọc lan nói: “Tôi và chị Hà cùng gia đình tặng Ngã ba Đồng Lộc cây đa và cây ngọc lan này mong các đồng chí đem về trồng và chăm sóc cây đa, cây ngọc lan mãi mãi xanh tươi nảy lộc ở Ngã ba di tích Lịch sử để tỏ lòng của bản thân và gia đình đối với các liệt sỹ Ngã ba Đồng Lộc.

Một lần nữa tôi gửi tất cả tấm lòng thương yêu đối với các anh chị em đã hy sinh ở Ngã ba Đồng Lộc, mong mãi mãi trường tồn với non sông đất nước”.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn trao cho đoàn cán bộ Hà Tĩnh lời khắc ghi để lưu niệm tại Ngã ba Đồng Lộc:

“Ngã ba Đồng Lộc một chiến công chói lọi, một địa danh lịch sử oai hùng, trên đường Trường Sơn huyền thoại mang tên Bác mãi trường tồn với non sông đất nước”.

Cây đa và cây ngọc lan ấy đã được các đồng chí lãnh đạo tỉnh cùng một số bà con Hà Tĩnh trồng tại Khu Di tích Ngã ba Đồng Lộc.

Thêm một điều kỳ diệu, cả đợt nắng nóng đang kéo dài, chiều ngày 30/5/2008 ấy lại có gió mùa đông bắc bổ sung, nhiều cơn mưa trong đêm rải rác kéo dài đến sáng. Giữa mùa hè nơi gió Lào nắng lửa vậy mà suốt cả tuần, sau khi 2 cây tặng phẩm của Đại tướng được trồng ở Ngã ba Đồng Lộc, thời tiết Hà Tĩnh luôn dịu mát, buổi chiều nào cũng có một trận mưa.

(Biên soạn từ Tiền Phong số 158 ra ngày 6/6/2008)

Thanh niên xung phong những năm tháng hào hùng làm nên huyền thoại

TNXP p4  anh 2
Ảnh tư liệu

Trong hai cuộc kháng chiến - chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, lực lượng TNXP luôn có mặt ở những nơi địch đánh phá ác liệt nhất. Bom đạn của giặc có thể băm nát những con đường, làm cháy trụi cả rừng cây, hủy hoại những cây cầu qua sông suối..., nhưng sự khốc liệt ấy không lay chuyển được ý chí kiên cường bám trụ, bám đường của những TNXP giàu lòng yêu nước. Trong công cuộc lao động và chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh ấy, TNXP đã làm nên bao “huyền thoại”, ghi bao chiến công xuất sắc, để lại sự cảm phục cho bao thế hệ người Việt Nam và tô thắm truyền thống của TNXP Việt Nam anh hùng.

Thanh niên xung phong Việt Nam Truyền thống đáng tự hào

“Thanh niên xung phong” - chỉ nghe cái tên thôi cũng đã hiểu được rằng, đó là lực lượng thanh niên xung kích, là những người sẵn sàng đi đầu và dấn thân vào nơi khó khăn, gian khổ nhất để lao động, phục vụ chiến đấu và chiến đấu, hoàn thành những nhiệm vụ quan trọng vì sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Điều đó là rất đúng. Nhưng, so với thực tiễn diễn ra trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt mà lực lượng TNXP gánh vác thì quả thật nói như vậy có vẻ chưa xứng tầm. Sự dấn thân của họ, sự hy sinh của họ thật lớn lao, thật anh hùng!

Hơn nửa thế kỷ trước, ngày 15/7/1950, Bác Hồ đã trực tiếp chỉ đạo thành lập tổ chức lực lượng TNXP phục vụ cho các chiến dịch lớn của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng đất nước. Thực tiễn đã chứng tỏ vai trò quan trọng và tác dụng thiết thực, ý nghĩa to lớn của lực lượng TNXP đối với công cuộc kháng chiến. Bất chấp bom đạn dày đặc của giặc, đêm cũng như ngày, mùa mưa cũng như mùa khô, lực lượng TNXP đã vượt qua vô vàn gian khổ hy sinh, chuyển tải hàng vạn tấn vũ khí, lương thực, quân trang, quân dụng cho chiến trường phục vụ kịp thời cho bộ đội chiến đấu. TNXP cũng là lực lượng quan trọng mở đường, san lấp hố bom, thông xe thông tuyến, vận chuyển thương binh…, góp phần đáng kể vào chiến công chung.

Trong các chiến dịch lớn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đặc biệt là Chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng TNXP luôn nêu cao ý chí tiên phong, đoàn kết một lòng vượt qua mọi khó khăn, kể cả dưới làn bom đạn ác liệt của giặc, luôn bám đường, bám chắc địa bàn để thực hiện và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Khi thì lặn lội ở các mặt trận Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bình Liêu, Bến Tàu…; khi lại làm đường, vận chuyển vũ khí, đạn dược… phục vụ cho Điện Biên Phủ… Riêng ở Chiến dịch Điện Biên Phủ đã có trên 15.000 đội viên TNXP phục vụ chiến đấu và có hơn 8.000 TNXP được tuyển vào các đơn vị bộ đội trực tiếp chiến đấu. Trong khi đó, ở chiến trường liên khu V vào cuối năm 1952, có khoảng hơn 4.000 TNXP phục vụ mặt trận Bắc Tây Nguyên và hàng nghìn đội viên TNXP khác được tuyển chọn vào bộ đội.

TNXP p4  anh 3
Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
 của TNXP tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ 7 (1997) Ảnh: T.L

Vai trò và chiến công của TNXP trong kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: “Việc đảm bảo giao thông vận tải, cung cấp lương thực, đạn dược cho Điện Biên Phủ là một nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém tình hình chiến đấu từng ngày, từng giờ. Vì vậy nên kẻ địch không thể tưởng tượng chúng ta có thể khắc phục được những khó khăn ấy. Bọn đế quốc và phản động đã không đánh giá được sức mạnh vĩ đại của một dân tộc, sức mạnh của nhân dân. Trong chiến dịch nếu không có TNXP thì bộ đội cũng sẽ gặp khó khăn. Thanh niên xung phong đã thật sự đem tinh thần xung phong của thanh niên, xung phong trên chiến trường Điện Biên Phủ, cùng quân đội, dân công, đồng bào Tây Bắc góp phần cống hiến xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Tôi luôn coi TNXP như bộ đội”.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy gian khổ hy sinh, lực lượng TNXP càng tỏ rõ vai trò to lớn, sức mạnh và ý chí ngoan cường, dũng cảm của mình trong phục vụ chiến đấu và chiến đấu, cùng cả dân tộc làm nên chiến thắng vẻ vang.

Chính vì vậy, các đơn vị TNXP trở thành một lực lượng quan trọng trong thế trận chiến tranh nhân dân vĩ đại.

Thực tiễn đã cho thấy việc huy động kịp thời lực lượng lớn TNXP tập trung trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là một quyết sách rất hiệu quả nhằm chống lại sức mạnh vũ khí tối tân và tàn bạo cũng như mưu ma chước quỉ thâm độc của kẻ thù. Sự ra đời và tác dụng to lớn của lực lượng TNXP cũng là một sáng tạo của cách mạng Việt Nam.

Năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào trực tiếp xâm lược miền Nam và tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc. Nhiệm vụ chiến đấu Lễ đón nhận danh hiệu chống lại không quân Mỹ và công tác chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam ngày càng đặt ra với những yêu cầu to lớn và cấp bách. Đảng, Bác Hồ và chính phủ, một lần nữa lại quyết định tổ chức lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước tập trung.

TNXP chống Mỹ, cứu nước tập trung có 3 nhiệm vụ: Lao động sản xuất, chiến đấu và học tập. Nhiệm vụ chủ yếu là lao động phục vụ công tác GTVT như: Sửa chữa cầu đường, rà phá bom mìn, làm đường mới, sửa đường cũ, trấn giữ trọng điểm địch đánh phá ác liệt phục vụ công tác vận tải…

Đợt tuyển đầu tiên là 5 vạn TNXP ở 12 tỉnh thành. Chỉ sau 2 tháng vừa tuyển dụng vừa tổ chức hành quân (gần là 20, 30 cây số; xa là 300 – 400 cây số), 5 vạn thanh niên đã có mặt trên các tuyến đường chiến lược: đường sắt, đường goòng, đường bộ 1A, đường 15A xuyên suốt từ miền Bắc vào đến Quảng Bình. Một số tuyến đường chiến lược ở địa phương như đường 7 Nghệ An, đường 8 Hà Tĩnh, đường 12A, 15B Quảng Bình đều có mặt TNXP.

Tiếp theo, đợt 2 của nhiệm kỳ I, tuyển thêm 2 vạn TNXP để có đủ lực lượng tiến vào Quảng Bình sát cánh với lực lượng công binh, bộ đội Đoàn 559, mở thêm nhiều đường mới như Đường 20 Quyết Thắng, đường 21, 22A, 22B, đường 10, đường 16 v.v… tạo thành mạng lưới đường giao thông từ Hà Tĩnh, Quảng Bình vào Quảng Trị, vào miền Nam.

Có thể nói: Với hơn 7 vạn TNXP trong nhiệm kỳ I (1965 - 1968) đã có mặt trên khắp mọi tuyến đường chiến lược, đường vòng, đường tránh; ở đâu có bom đạn, có đường sá, ở đó có lực lượng TNXP.

Tại tất cả các trọng điểm địch đánh phá ác liệt, đều có lực lượng TNXP cắm chốt. TNXP đã cùng các lực lượng công binh và cán bộ công nhân ngành GTVT trong một thời gian ngắn đã thực hiện được khẩu hiệu:

TNXP p4  anh 4
Đại đội TNXP 304 san lấp hố bom Cầu Om - Đô Lương - Nghệ An (1968) Ảnh: TL

TNXP p4  anh 5
Tất cả vì những chuyến xe ra tiền tuyến Ảnh: T.L

Địch phá, ta sửa ta đi

Địch lại phá, ta lại sửa, ta đi.

Và, Địch phá ta cứ đi

Tính chung cả 3 nhiệm kỳ (1965 - 1975) ta đã huy động trên 14 vạn TNXP chống Mỹ, cứu nước tập trung (trên 50% là nữ). Tỉnh thành nào cũng làm nhiệm vụ tuyển TNXP cung cấp cho TƯ. Tỉnh tuyển đông nhất trên 4 vạn như Thanh Hóa. Địa bàn có TN XP hoạt động đông nhất là Thanh Hóa, Quảng Bình.

Tính chung cả 3 nhiệm kỳ, chúng ta đã thành lập gần 200 đội và đại đội độc lập; lúc cao điểm số TNXP có mặt trên mọi tuyến đường là 7 vạn, đã làm mới 2195 cây số đường chiến lược, đường vòng, đường tránh, đảm bảo giao thông trên 3000 cây số, trấn giữ trên 2526 trọng điểm của 53 con đường; tham gia xây dựng 6 sân bay…

Cùng với lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước ở miền Bắc, lực lượng TNXP giải phóng miền Nam cũng được thành lập. Một tổng đội TNXP giải phóng miền Nam gồm 9 đội được phân công bám sát phục vụ chiến đấu ở các quân khu, quân đoàn (khoảng 2500 cán bộ, đội viên).

Ở quân khu 9 cũng thành lập 6 đại đội với gần 2000 đội viên làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực, súng đạn trên tuyến đường 1C.

Ở quân khu 5, khu Đoàn thanh niên cũng thành lập tổng đội TNXP quân khu 5. Ngoài ra một số tỉnh cũng thành lập các đơn vị TNXP của tỉnh.

Nhiệm vụ chủ yếu của TNXP giải phóng miền Nam là làm công tác vận tải lương thực, vũ khí, xây dựng kho tàng, đào hầm tránh bom đạn, tiếp tế súng đạn, cáng tải, chăm sóc thương binh, thu dọn chiến trường và trực tiếp chiến đấu khi cần thiết.

Trong 10 năm (1965-1975), cả ở 2 miền, đã có gần 30 vạn nam nữ gia nhập lực lượng TNXP và họ đã có mặt ở hầu hết những nơi gian khổ, ác liệt nhất, ngày đêm phục vụ chiến đấu và chiến đấu. Đặc biệt tiêu biểu cho hoạt động của lực lượng TNXP chống Mỹ là trên tuyến đường Trường Sơn – con đường chiến lược thực hiện sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Tại đây, bom đạn của giặc Mỹ tập trung đánh phá suốt ngày đêm, hết ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác với đủ loại vũ khí tối tân, kể cả chất độc hóa học. Nhưng cũng chính trên mặt trận ác liệt này, bất chấp bom đạn, hàng vạn TNXP đã ngày đêm bám đường, bám phà đảm bảo giao thông. Họ đã làm mới hơn 2000 km đường chiến lược, đảm bảo giao thông trên 50 con đường huyết mạch với chiều dài 3000 km; chốt giữ trên 2500 trọng điểm địch đánh phá ác liệt; vận chuyển hàng triệu tấn vũ khí, lương thực và hàng hóa khác ra tiền tuyến… Những địa danh như Ngã ba Đồng Lộc, Truông Bồn, Cua chữ A, Hang Tám Cô… đã gắn với lịch sử hào hùng của lực lượng TNXP, là biểu tượng của sự hy sinh và ý chí “quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Từ những năm tháng hào hùng ấy, TNXP đã xây dựng và không ngừng tô thắm truyền thống “phục vụ quên mình, anh dũng xung phong, lập công xuất sắc”. ở miền Nam, Tổng đội TNXP giải phóng miền Nam với hàng chục ngàn đội viên, đã dũng cảm phục vụ chiến đấu và chiến đấu, cùng tham gia với quân giải phóng chiến đấu 641 trận, trực tiếp độc lập chiến đấu 40 trận, tiêu diệt 296 tên lính Mỹ, 556 tên lính ngụy, phá hủy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và bắn rơi 8 máy bay… Lực lượng TNXP cũng đã vận chuyển 20.000 tấn hàng, chuyển hơn 9000 thương binh, chăm sóc điều trị 2500 thương binh, đưa đón bảo vệ 18000 lượt bộ đội, cán bộ qua sông, qua trọng điểm, xây dựng và phục vụ hàng chục bệnh viện dã chiến; Xây dựng nhiều kho, hầm chứa vũ khí, quân trang, quân dụng… TNXP phục vụ ở tuyến đường 1C vùng Kiên Giang - An Giang miền Tây Nam Bộ trong những năm ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã đi vào lịch sử hào hùng như một huyền thoại. Hoạt động của TNXP đã góp phần quan trọng làm nên chiến công của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước.

TNXP p4  anh 6
Hố bom chồng lên hố bom - Địch đã thả hàng chục ngàn tấn bom nổ chậm trên các tuyến đường ra tiền tuyến, tất cả đã được TNXP tháo gỡ hoặc phá hủy Ảnh: T.L

TNXP p4  anh 7
Theo lời dạy của Bác Hồ, lực lượng TNXP không
 quản ngại gian khổ hy sinh, thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến” Ảnh: T.L

Có thể nói, càng trong gian khổ và những thử thách khốc liệt của chiến tranh, ý chí can trường, lòng dũng cảm của TN XP Việt Nam càng được thể hiện rõ nét. “Tiếng hát át tiếng bom” không phải là một khẩu hiệu cổ vũ động viên đơn thuần mà là một hiện thực sinh động diễn ra nơi cuộc chiến đấu ác liệt, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần phục vụ chiến đấu và chiến đấu, sẵn sàng xả thân để những con đường ra mặt trận được thông suốt. Lực lượng TNXP xứng đáng là lực lượng mũi nhọn trên các trận tuyến khó khăn, ác liệt suốt hai cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Trong cuộc chiến đấu vô cùng gian nan ấy, hàng nghìn chiến sĩ TNXP đã anh dũng hy sinh để bảo vệ từng con đường, từng chuyến phà đưa hàng ra trận. Biết bao người khác mang thương tích trên mình, rồi cả nhiễm chất độc da cam... Đó là sự hy sinh to lớn vì nền độc lập tự do của Tổ quốc. Nhiều cá nhân và tập thể TNXP đã được Đảng và Nhà nước tuyên dương Anh hùng. Nhiều tượng đài đã được xây dựng để tưởng niệm các liệt sĩ TNXP. Đó là thể hiện sự ghi nhớ công lao của lực lượng TNXP, của những chàng trai, cô gái đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, dẫu rằng bao nhiêu ấy vẫn là chưa đủ!

Truyền thống anh hùng của lực lượng TNXP Việt Nam trong 25 năm đồng hành cùng dân tộc chống giặc ngoại xâm (1950 - 1975) đã và mãi mãi là niềm tự hào của tuổi trẻ, của nhân dân ta và là hành trang tinh thần quí giá để thế hệ trẻ Việt Nam vươn tới, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh và giàu mạnh.

Thu Phong

Chiến đấu dũng cảm, lao động sáng tạo, lập công xuất sắc

Ngày 15/7/1950, theo Chỉ thị của Bác Hồ kính yêu, lực lượng TNXP Việt Nam được thành lập. Từ một đội đầu tiên với 225 đội viên do đồng chí Vương Bích Vượng, ủy viên BCH Trung ương Đoàn làm đội trưởng, trải qua hơn nửa thế kỷ lao động, chiến đấu và phục vụ chiến đấu: 3 thế hệ TNXP chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đã có những đóng góp xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, tô thắm thêm trang sử hào hùng của dân tộc và của thế hệ trẻ Việt Nam.

Thế hệ TNXP trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

Ra đời ngày 15/7/1950, đến tháng 9/1950 đội nhận lệnh đi phục vụ chiến dịch Biên giới. Tại chiến dịch, các đội viên TNXP đã bám sát bộ đội, tiếp đạn, tiếp lương, tải thương… và Đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ngay từ lần ra quân đầu tiên.

TNXP p4  anh 8
Đ/c Vương Bích Vượn,g Đội trưởng Đội TNXP đầu tiên Ảnh: T.L

Phát huy kết quả đạt được, tháng 10/1950, Trung ương Đoàn thành lập Đội TNXP công tác thứ 2 với 1.737 đội viên, ngày 22/12/1950 đội đi phục vụ chiến dịch Trung Du và cũng như đội TNXP công tác đầu tiên, Đội đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.

Sau chiến dịch Trung Du, lực lượng TNXP được tăng cường thêm quân số để đáp ứng nhiệm vụ cách mạng. Liên tiếp trong các chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Tây Bắc, Hòa Bình… các đơn vị, đội viên TNXP đều hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Để ghi nhận, biểu dương ý chí và sự chịu đựng gian khổ, hy sinh của TNXP, nhân chuyến đi thị sát chiến dịch, Bác Hồ đã đến thăm đơn vị TNXP 312 đang làm nhiệm vụ ở Nà Cù, Bắc Kạn; vào dịp đó Bác đã tặng TNXP bốn câu thơ nổi tiếng:

“Không có việc gì khó,

Chỉ sợ lòng không bền.

Đào núi và lấp biển,

Quyết chí ắt làm nên”.

Bốn câu thơ đó, đã và mãi mãi trở thành phương châm hành động của các thế hệ thanh niên Việt Nam. Bước vào Đông Xuân 1953-1954, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn mới, lực lượng TNXP cũng phát triển và lớn mạnh không ngừng để đáp ứng nhu cầu của kháng chiến. Theo chỉ thị của Bác Hồ, Đoàn TNXP Trung ương được thành lập (trên cơ sở hợp nhất các đội TNXP) do đồng chí Vũ Kỳ làm Đoàn trưởng và đồng chí Vũ Song làm Đoàn phó. Chỉ trong vòng 1 năm, Đoàn TNXP đã phát triển lên trên 1 vạn đội viên, có mặt hoạt động ở khắp các khu Việt Bắc, Tây Bắc và khu 4.

Trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và đại thắng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ của quân và dân ta, có vai trò lịch sử là làm đường, phá bom nổ chậm, giữ vững mạch máu giao thông quan trọng của mặt trận. Những địa danh lịch sử gắn liền với chiến công hiển hách của lực lượng TNXP trong việc giữ vững mạch máu giao thông như: Đèo Pha Đin, Ngã ba Cò Nòi, Cầu Tà Vài là những điểm xung yếu nhất trên tuyến đường vận chuyển của ta đến mặt trận. Tại đây, địch tập trung máy bay ném bom, bắn phá suốt ngày đêm: Bom nổ chậm, bom bươm bướm, bom na pan… Có ngày địch ném 300 quả bom các loại như ở Ngã ba Cò Nòi… Bất chấp nguy hiểm, TNXP thường xuyên có mặt với một quyết tâm “TNXP còn thì mạch máu giao thông được trụ vững”. Nhiều đội viên hy sinh, nhiều đội viên bị bom vùi, nhiều người bị thương, ốm đau, bệnh tật… Nhưng vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, anh em TNXP đã có mặt 24/24 giờ trên mặt đường, đảm bảo thông đường, thông xe, không để giao thông bị tắc quá 2 giờ.

Ngoài ra, TNXP còn gánh vác nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực cho bộ đội. Đào hầm hào, làm trận địa pháo, kéo pháo vào trận địa, làm giao thông hỏa tốc… Nhiệm vụ nào TNXP cũng đều hoàn thành xuất sắc.

Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, TNXP vinh dự được tham gia hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trên 4 vạn TNXP tham gia tiếp quản Thủ đô, tiếp quản thành phố Hải Phòng, thu dọn chiến trường Điện Biên Phủ, khôi phục các tuyến đường giao thông như: Tuyến đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, Hà Nội - Lào Cai, Thanh Hóa - Vinh; mở đường 12B Hòa Bình, xây dựng các nhà máy, hầm mỏ: Khu gang thép Thái Nguyên, mỏ Apatít Lào Cai; nhà máy cơ khí Trung quy mô…

Cũng như trong phục vụ chiến đấu, lực lượng TNXP với tinh thần xung kích vượt khó, lao động quên mình, luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao.

Thế hệ TNXP trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam.

Liên tiếp bị thất bại nặng nề ở chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến.

Đáp lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ “Vì miền Nam ruột thịt”, vì “Thống nhất Tổ quốc” cùng với hàng triệu thanh niên tham gia phong trào “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong”, đội TNXP chống Mỹ cứu nước được thành lập (21/6/1965) và lên đường làm nhiệm vụ: Vận chuyển lương thực, vũ khí, phục vụ các chiến trường, mở đường, đảm bảo giao thông trên các tuyến đường quan trọng. Hầu hết các tuyến đường, các trọng điểm bị máy bay Mỹ đánh phá ác liệt mang tính hủy diệt như: Đèo Pu La Nhích, Cua chữ A (Đường 20 Quyết Thắng), Cổng trời (đường10), đèo Đá Đẽo (đường 15), ngầm Hạ Trạch, phà sông Gianh (Quảng Bình); Ngã ba Đồng Lộc, Khe Giao (Hà Tĩnh), Truông Bồn (Nghệ An); Cầu Giẽ (Hà Tây cũ)… đều do TNXP chốt giữ mà ngày nay đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm, trí thông minh, sự xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ trẻ Việt Nam.

Trong 10 năm (1965-1975), lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước đã động viên 133.157 thanh niên tham gia (7 vạn là nữ), trong đó:

- Trên 2 vạn TNXP phục vụ quân đội với nhiệm vụ mở đường, đảm bảo giao thông, vận chuyển lương thực, hàng hóa, vũ khí cho chiến trường miền Nam. Tham gia mở đường chiến dịch “Chọc thủng Trường Sơn mở đường thắng lợi” với đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử, kịp thời chi viện cho miền Nam.

- Trên 10 vạn TNXP phục vụ ngành giao thông vận tải với khẩu hiệu “Sống bám cầu, bám đường, chết kiên cường dũng cảm”; Đã chốt giữ hầu hết các trọng điểm ác liệt ngày đêm địch đánh phá. Mở đường mới, đảm bảo giao thông thông suốt trên các tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông, đường goòng trong cả nước.

TNXP p4  anh 9
Các đơn vị TNXP giải phóng miền Nam chiến đấu đánh địch Ảnh: T.L

- Trên 1 vạn TNXP tham gia trồng rừng, làm đường lâm nghiệp, xây dựng kho tàng bến bãi.

- Trên 5.000 TNXP làm nhiệm vụ giúp nước bạn Lào, mở đường nối liền từ biên giới Việt Nam tới Thủ đô Viêng Chăn.

Trong 10 năm, lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước đã:

+ Đảm nhận 16 loại công việc khác nhau, chủ yếu tập trung vào 3 ngành: Giao thông vận tải, Quốc phòng và Lâm nghiệp.

+ Mở 102 con đường mới với chiều dài 4.130km.

Trong đó có những con đường hết sức quan trọng như Đường 20 (còn gọi là Đường Quyết Thắng); đường 21, 21B, 22B Hà Tĩnh, đường 10 từ miền đông Quảng Bình đi biên giới Việt Lào; đường 12, 16, 18 Quảng Bình… Mặc dù, trong điều kiện địch phá ác liệt ngày đêm và điều kiện thời tiết hết sức khắc nghiệt, TNXP vừa phải làm đường, vừa phải đảm bảo giao thông và quan trọng là phải giữ bí mật để địch không phát hiện ra đường mới, nhưng với tinh thần sáng tạo, lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình, TNXP đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vượt trước thời gian và đảm bảo chất lượng. Đặc biệt là Đường 20 (con Đường Quyết Thắng) được mở vắt qua đỉnh Trường Sơn với địa hình hiểm trở, xuyên qua các rừng già, nhiều đèo cao thẳng đứng, vách núi cheo leo, đá tai bèo lởm chởm, có 970 cua vòng và hàng trăm trọng điểm. Đội TNXP 25 anh hùng đã bám trụ và đứng vững trong suốt 1.400 ngày đêm bom đạn ác liệt (bình quân mỗi người gánh chịu từ 100-150 quả bom các loại của địch).

+ Đảm bảo giao thông ngày đêm trên 3.000km đường, chốt giữ 2.526 trọng điểm địch thường xuyên đánh phá ác liệt. Trên tất cả các tuyến đường chính, đường phụ, các trọng điểm… đều vang dội và rực lửa chiến công của TNXP. Địch càng đánh phá ác liệt bao nhiêu thì TNXP càng lập nên những chiến công xuất sắc bấy nhiêu. Tiêu biểu là các đơn vị TNXP anh hùng, các anh hùng Nguyễn Thị Kim Huế, Nguyễn Trí Ân, Đinh Thị Thu Hiệp, các liệt sĩ Lê Viết Lân, Nguyễn Thị Nhạ, Nguyễn Thị Vân Liệu, 10 cô gái Đồng Lộc, 13 cô gái Truông Bồn… là những Thiên anh hùng ca bất diệt trên mặt trận giao thông vận tải mà mãi mãi nhân dân và tuổi trẻ chúng ta ghi nhớ.

+ Vận chuyển hàng chục vạn tấn hàng hóa, lương thực, vũ khí, đạn dược phục vụ chiến trường.

+ Tham gia cùng quân đội xây dựng sân bay quân sự dã chiến.

+ Bắn rơi 15 máy bay Mỹ, bắt sống 13 giặc lái, 6 thám báo, biệt kích.

+ Rà phá trên 1 vạn quả bom, mìn.

+ 16.000 đội viên bổ sung cho quân đội.

+ 1.710 đội viên vào học các trường Đại học, trung học chuyên nghiệp.

+ 833 đội viên được đi học nước ngoài.

+ 8.042 người được đi học tại các trường công nhân kỹ thuật.

+ 15.072 người chuyển sang công tác tại các cơ quan xí nghiệp.

Cùng với TNXP chống Mỹ cứu nước ở miền Bắc, Tổng đội TNXP giải phóng miền Nam được thành lập ngày 20/4/1965, lúc đầu chỉ có 108 đội viên, sau đó phát triển lên đến 5.000 đội viên với nhiệm vụ: vận chuyển vũ khí, lương thực, cáng tải và chăm sóc thương binh, làm nhà, kho, làm đường, trực tiếp tham gia chiến đấu…

TNXP p4  anh10
TNXP luôn sát cánh với bộ đội trong các trận chiến đấu Ảnh: T.L

Trong 10 năm, Tổng đội TNXP giải phóng miền Nam đã:

+ Phục vụ 641 trận đánh.

+ Vận chuyển 20.000 tấn lương thực, vũ khí.

+ Xây dựng 8 bệnh viện dã chiến gồm 52 nhà, 272 kho chứa vũ khí, lương thực hàng hóa (mỗi kho từ 10-20 tấn).

+ Mở 214km đường (29km đường ô tô), đào đắp 1.135 hầm để nuôi thương binh, bệnh binh (khoảng 52.913m2).

+ Trực tiếp đánh 40 trận, bắt sống 856 tên địch (trong đó có 286 lính Mỹ, 7 lính Nam Triều Tiên).

+ Bắn cháy và phá hỏng 20 xe bọc thép, xe tăng, 25 súng đại liên, bắn rơi 5 máy bay Mỹ.

+ Có 500 đội viên được kết nạp vào Đảng, 605 đội viên được kết nạp vào  Đoàn.

Thế hệ TNXP xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng ở miền Nam, rất nhiều việc bề bộn sau chiến tranh cần giải quyết và ở Biên giới Tây Nam cuộc chiến tranh mới lại nổ ra.

Trước tình hình đó, hàng chục vạn đội viên mới thuộc thế hệ TNXP thứ 3 tiếp bước cha anh lên đường làm nhiệm vụ.

Mở đầu là cuộc ra quân của hơn 1 vạn TNXP xây dựng kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh (28/3/1976) với nhiệm vụ chủ yếu:

+ Xung kích xây dựng vùng kinh tế - xã hội mới;

+ Xung kích góp phần cải tạo và xây dựng thành phố những năm đầu sau giải phóng;

+ Tham gia phục vụ chiến đấu và chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam.

Với khí thế sục sôi cách mạng sau ngày giải phóng, kế tục và phát huy truyền thống tốt đẹp của các thế hệ cha, anh, thế hệ TNXP thứ 3 lại tiếp tục lập được nhiều chiến công xuất sắc.

Sau hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, lực lượng TNXP xây dựng kinh tế đã phát triển ở 35 tỉnh, thành phố, 120 quận huyện đã huy động trên 20 vạn lượt thanh niên tham gia, có mặt trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước.

Để đạt được những thành tích lớn lao trên, lực lượng TNXP có những hy sinh không nhỏ: Trên 3.000 cán bộ, đội viên TNXP hy sinh, trong đó gần 3.700 người đã được công nhận là liệt sĩ. Hàng ngàn cán bộ, đội viên bị thương, bị tai nạn lao động, bị sức ép, bị nhiễm chất độc hóa học… mà đến nay còn để lại nhiều thương tật và di chứng. Hàng ngàn nữ đội viên đã cống hiến tuổi xuân của mình trên những tuyến đường, những trọng điểm… và hiện nay sống đơn côi, không chồng, không con, không nơi nương tựa…

Sự cống hiến, hy sinh mất mát của TNXP trong gần nửa thế kỷ qua là to lớn, không gì bù đắp được. Nhưng hiện tại nhiều anh chị em còn chịu nhiều thiệt thòi, chưa được hưởng hoặc được hưởng chưa đúng với chế độ, chính sách của Nhà nước. Mặc dù vậy, các đội viên vẫn không đòi hỏi, vẫn luôn giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp hào hùng của TNXP, mãi mãi xứng đáng là tấm gương để các thế hệ thanh niên học tập.

Những phần thưởng cao quý

Lực lượng TNXP Việt Nam đã được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân và các phần thưởng cao quý khác: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân chương Thành đồng hạng Ba; 1 Huân chương Độc lập hạng Ba; Cờ thưởng của Ban chấp hành Trung ương Đảng.

* 6 tập thể được tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

- Đội 25 TNXP chống Mỹ, cứu nước.

- Đại đội 759, Đội 75 TNXP chống Mỹ cứu nước Quảng Bình.

- Đại đội 551, Đội 55 TNXP chống Mỹ cứu nước Hà Tĩnh.

- Tiểu đội 2 Đại đội 317 - Đội TNXP 300 (13 TNXP hy sinh ở Truông Bồn).

- Tiểu đội 4, Đại đội 552, Đội 55 TNXP chống Mỹ cứu nước Hà Tĩnh (đơn vị có 10 cô gái hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc).

- Tổng đội 572 TNXP chống Mỹ cứu nước phục vụ chiến trường Lào (được tuyên dương sau khi chuyển thành xí nghiệp 572).

- TN XP xây dựng kinh tế thành phố Hồ Chí Minh 2 lần được tuyên dương đơn vị Anh hùng Lao động.

* 6 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: Nguyễn Thị Kim Huế (TNXP chống Mỹ cứu nước Quảng Bình); Nguyễn Trí Ân (TNXP chống Mỹ cứu nước Hà Tĩnh); Đinh Thị Thu Hiệp (TNXP chống Mỹ cứu nước Quảng Bình); Nguyễn Thị Vân Liệu (TN XP đội 25); Nguyễn Thị Nhạ (TN XP đội 25); Đoàn Thị Liên (TNXP giải phóng miền Nam).

Nhân kỷ niệm 20 năm Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất Tổ quốc và dịp kỷ niệm 45 năm Ngày truyền thống lực lượng TNXP Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã tặng lực lượng TNXP bức trướng mang dòng chữ:

“Chiến đấu dũng cảm

Lao động sáng tạo

Lập công xuất sắc”.

Theo đề nghị của Ban thường vụ Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định lấy ngày 15 tháng 7 hàng năm là ngày truyền thống của lực lượng TNXP Việt Nam.

(T.H)

TNXP với Chiến dịch Điện Biên Phủ và đường chiến lược Lai Châu - Biên giới

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để phục vụ chiến dịch Biên giới, ngày 15-7-1950 Bác Hồ chỉ thị cho Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc (nay là Đoàn TNC S Hồ Chí Minh) tổ chức Đội Thanh niên xung phong công tác Trung ương (TNXPCTTW) để “giúp việc làm đường, để làm lực lượng căn bản”, lúc đầu Đội chỉ có 225 cán bộ, đội viên. Đến các chiến dịch Trung du, đường 18, Hà Nam Ninh, Tây Bắc, Thượng Lào (năm 1951-1952), Đội được phát triển thêm với 2.750 cán bộ, đội viên (kể cả nữ).

Tháng 5 năm 1953, Bộ Chính trị quyết định hướng Chiến dịch là Tây Bắc, Đoàn thanh niên xung phong được tuyển thêm 10.000 quân với bộ khung Ban chỉ huy đội và đại đội là các Huyện ủy viên, Bí thư các huyện Đoàn thanh niên, cán bộ tỉnh Đoàn thanh niên và các đảng viên.

...Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để chiến thắng”, hàng vạn nam thanh niên vùng tự do Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc... và các tỉnh vùng mới giải phóng ở Khu III đã tình nguyện gia nhập Thanh niên xung phong. Có thể nói chưa bao giờ lại có phong trào tòng quân sôi nổi và vượt mức như vậy và ngày tiễn anh em lên đường vui như ngày hội.

Tuyển chọn đến đâu tổ chức thành đơn vị đại đội đồng thời với việc lập chi bộ Đảng, chi đoàn Thanh niên cùng cấp và cứ 10 đại đội trở lên lập thành một Đội cùng với việc lập Liên chi ủy và Liên chi đoàn thanh niên. Sau khi học Nội quy, Điều lệ Đoàn thanh niên xung phong, các đại đội tiếp nối nhau hành quân, ngày nghỉ, đêm đi (vì ban ngày máy bay địch lùng sục ném bom, bắn phá khi phát hiện có mục tiêu) theo hướng Tây Bắc.

Ở Liên khu V, để phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, Liên khu ủy quyết định mở mặt trận Bắc Tây Nguyên và Liên khu Đoàn Thanh niên Cứu quốc đã huy động 4.000 nam nữ thanh niên trong đó có 2.000 đội viên thanh niên xung phong tham gia phục vụ chiến dịch Đường 19 và An Khê.

Nhiệm vụ chính của thanh niên xung phong được Hội đồng cung cấp mặt trận Điện Biên Phủ (có tên mật là T.100) giao là bảo đảm giao thông thông suốt cho chiến dịch, làm kho tàng, lán trại, canh gác bảo vệ, tải thương, tải đạn và hàng chục công việc khác... Cho đến khi mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng thanh niên xung phong Trung ương có khoảng 15.000 cán bộ, đội viên được bố trí trên các địa bàn. Đội 36 phục vụ các cơ quan Đảng và Nhà nước ở An toàn khu (ATK); Đội 38 làm đường 1B từ biên giới lực lượng - Trung Quốc tới Thái Nguyên để tiếp nhận hàng viện trợ của các nước, làm đường 13 từ Yên Bái sang Sơn La; Đội 34 và Đội 40 trực tiếp bảo đảm giao thông từ Mộc Châu đến gần Điện Biên Phủ, dài trên 200km. Trừ các đại đội 401, 404 phục vụ hỏa tuyến, các đại đội 298, 409, 410 phục vụ Hội đồng cung cấp mặt trận (T. 100), đại đội 291 phục vụ ở Thượng Lào, các đại đội còn lại được đóng rải rác trên tuyến đường 41 (nay là đường số 6) nhưng tập trung nhất là ngã ba Cò Nòi, đèo Chiềng Đông, đèo  Chiềng Pắc, đèo Sơn La, đèo Pha Đin, ngã ba Tuần Giáo, cầu Tà Vài và Yên Châu v.v...

Đến tháng 12 năm 1953, mặt trận chính là Điện Biên Phủ đã hình thành. Cả ta và địch đều tập trung lực lượng, tập trung mọi cố gắng cao nhất để giành thắng lợi trong cuộc đọ sức quyết liệt này.

Đáp lại lời kêu gọi của Trung ương và của Bác Hồ, các lực lượng công binh, Thanh niên xung phong, chủ lực cầu đường và dân công đã sửa chữa, mở rộng, làm mới hàng nghìn km đường, cầu (đường 1B, 13, 41, Mộc Châu - Pa Hang); các thác trên sông Đà, sông Nậm Na, sông Mã đã được phá, các đoàn vận tải bằng ô tô, xe đạp thồ, ngựa thồ, gánh bộ, thuyền gỗ, thuyền nan từ các miền đều tập trung về hướng Điện Biên Phủ.

Địch cho rằng mặt trận cách hậu phương tới 500 - 600km, ta không tài nào cung cấp cho bộ đội đủ súng đạn, lương thực, thực phẩm với việc tổ chức vận chuyển bằng thủ công (một dân công chuyển được 20kg lương thực thì ăn đã gần hết còn đâu đưa vào kho). Trên cơ sở tính toán đó địch cho máy bay đánh phá khắp mọi nơi, cả trên bộ và trên sông để triệt đường vận chuyển của ta ra tiền tuyến và chúng đinh ninh sẽ chắc thắng. Lúc đầu chúng đánh phá từ xa, đường 1B, đường 13, đường 15 từ Thanh Hóa sang Hoà Bình, về sau chúng đánh phá những nơi gần mặt trận, nhất là từ Ngã ba Cò Nòi đến Ngã ba Tuần Giáo - Điện Biên Phủ.

TNXP p4  anh11
Hành quân lên Tây Bắc Ảnh: T.L

Ngã ba Cò Nòi là giao điểm giữa đường 13 (từ Việt Bắc sang) và đường 41 (từ Khu III, Khu IV lên) là đoạn đường xung yếu nhất trong tuyến đường của chiến dịch nên đã trở thành “cửa tử”, thành “túi bom”. ở ngã ba này địch đánh phá ác liệt ngày cũng như đêm, có ngày chúng ném đến 300 quả bom các loại. Hàng ngày máy bay “bà già” của địch bay rất thấp, rà soát quần đảo phát hiện mục tiêu là báo cho các máy bay phản lực Hen Cát, B26, B29 đến bắn phá, ném bom. Gay gắt nhất là khi chúng ném bom phá, bom nổ chậm, bom napan, bom bươm bướm cùng lúc. Song bất chấp hiểm nguy, cán bộ, đội viên thanh niên xung phong các Đại đội 293, 300, 403, 408... đã kiên cường bám trụ ngày đêm. Được sự huấn luyện của bộ đội công binh, các tổ phá bom đã dũng cảm lăn bom (gần mép đường) xuống vực sâu, phá những quả nằm sâu trên mặt đường. Lúc đầu công tác rà phá bom còn nhiều bỡ ngỡ, khó khăn nhưng qua thực tế càng ngày càng có kinh nghiệm. Các tổ phá bom tổ chức đài quan sát bom rơi và đánh dấu vào sơ đồ không để sai sót, kịp thời phổ biến kinh nghiệm và phát huy sáng kiến như ngồi trong hố cá nhân dùng sào nứa dài gạt bom bươm bướm gây nổ… Sau các trận đánh chỉ 3 – 4 tiếng đồng hồ là đường lại thông. Tuy nhiên đã có hàng trăm thanh niên xung phong hy sinh anh dũng tại nơi đây. Tiêu biểu cho tinh thần dũng cảm rà phá bom là các đồng chí

Nguyễn Tiến Thụ, Cao Xuân Thọ, Trần Cam... những người mà trước khi đi làm nhiệm vụ được đồng đội “tế sống”, sau này trở thành chiến sĩ thi đua của Đoàn thanh niên xung phong.

Đèo Pha Đin dài 32km, cao 1.600m (so với mặt biển) rừng cây rậm rạp, nhiều đoạn “cua” gấp khúc, dốc đứng, vực sâu, đường như chồng lên nhau, ô tô phải vượt nhiều “đỏ” mới qua được, lại chỉ cách mặt trận khoảng 40km đường chim bay. Địch chọn nơi đây để ném bom bởi chúng tính đánh một thì phá được giao thông từ hai đến ba lần nên chúng càng đánh phá thường xuyên và ác liệt hơn. Những ngày mưa đường trơn như đổ mỡ, xe trườn lên trượt xuống, có khi bánh quay tít mà xe không chuyển chút nào. Tất cả những vất vả và hy sinh đã không khuất phục được tinh thần của thanh niên xung phong. Các Đại đội 264, 292, 293, 294, 295, 403, 405... được phân công phụ trách từng đoạn đường, anh em phải chia ca kíp làm cả ngày cả đêm phá bom, chống lầy, san lấp mặt đường và nhờ có sự chuẩn bị sẵn nhiều đá, nhiều cây gỗ nên công việc khôi phục đường được nhanh chóng.

TNXP p4  anh12
Vận tải vũ khí, thuốc men, lương thực cho chiến trường Ảnh: T.L

Một lần có 10 chiếc xe chở đạn pháo của bộ đội vượt đèo Pha Đin, chiếc đi đầu bị trúng bom, bốc khói, lái xe Trịnh Văn Huyền đã nhảy lên xe dũng cảm dập lửa và hô hào đồng đội đến cứu xe. Anh em các đại đội ở gần đó đã xông đến cứu hàng, cứu xe bất chấp nguy hiểm đến tính mạng. Đoàn xe được an toàn và tiếp tục ra mặt trận. Trịnh Văn Huyền được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba, được kết nạp Đảng, được bầu là Chiến sĩ thi đua và được cử vào Đoàn đại biểu Thanh niên Việt Nam đi dự Liên hoan Thanh niên và Sinh viên thế giới ở Vácsava (Ba Lan) năm 1955. Vùng Pha Đin, Tuần Giáo có nhiều thanh niên xung phong hy sinh, riêng Đại đội 293 có 17 người. Cầu Tà Vài dài khoảng 60m, cách đó không xa là cầu Yên Châu nằm trên cùng một dòng suối lớn, về mùa cạn thì nơi nào cũng lội qua được nhưng mùa mưa lại rất nguy hiểm. Đại đội 407, nổi tiếng về phá bom được phân công chốt ở hai vị trí này cùng 2 đơn vị bạn, 292, 297. Sau khi cầu bị đánh sập, anh em phải làm đường ngầm nhưng vùng này lại ít đá tảng nên phải đan rọ bằng giang hoặc lấy cây gỗ nhỏ làm khung để bỏ đá “đầu trọc” làm nền đường. Sau đó, chặt tre, gỗ làm rong đanh, lát mặt đường, hai bên thì đóng cọc giữ chặt các cây buộc giằng để cho ô tô qua lại không trơn, không lầy. Địch ném bom hỏng đoạn nào thì làm lại đoạn ấy. Rút kinh nghiệm ở các đơn vị khác, ở đây cũng  chuẩn bị thật nhiều đá, thật nhiều tre, cây gỗ nên khắc phục hậu quả được nhanh hơn.

T.100 - “cái dạ dày” của Chiến dịch Điện Biên Phủ cứ ngày càng “to ra”. ở đây Thanh niên xung phong làm nhiệm vụ xây dựng hệ thống kho tàng, trạm trại, bốc vác, vận chuyển và bảo vệ kho, hàng ngày phải vào rừng chặt cây ngụy trang các con đường vào kho, anh em làm việc với tinh thần trách nhiệm cao và ý thức kỷ luật thật nghiêm vì chỉ sơ suất một chút là có thể ảnh hưởng đến chiến dịch.

Trong hoàn cảnh chiến tranh, mặc dù điều kiện liên lạc, đi lại hết sức khó khăn, các đội và đại đội ở phân tán trên tuyến đường hàng mấy trăm ki lô mét, xa sự lãnh đạo của Ban Chỉ huy Đoàn, Đội nhưng các chi bộ đã phát huy tinh thần tự chủ công tác, liên hệ chặt chẽ với các đơn vị bộ đội, với Hội đồng cung cấp mặt trận, với địa phương nơi đóng quân nắm chủ trương của Đảng và cấp trên, giữ vững sinh hoạt chi bộ, chi đoàn, đoàn kết giúp đỡ nhau, bảo đảm đời sống, bảo đảm tốt quan hệ với các cơ quan sử dụng và nhân dân địa phương. Từ đó mà nhiệm vụ được giao anh em đều hoàn thành.

Tuy thanh niên xung phong chỉ là một lực lượng nhỏ nhưng lại là lớp người tuổi trẻ, hăng hái, được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật cao, tình nguyện phục vụ đến kháng chiến thành công. Với quyết tâm “Thanh niên xung phong còn thì mạch giao thông luôn được giữ vững” nên được giao nhiệm vụ ở các trọng điểm của chiến dịch. Thanh niên xung phong không chỉ làm đường, phục vụ chiến đấu anh dũng và đầy sáng tạo mà trong chiến dịch còn chuyển sang bộ đội 8000 quân (kể cả 2.000 quân của Đội 38) trực tiếp cầm súng chiến đấu góp phần vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (ngày 7 tháng 5 năm 1954) chấn động địa cầu.

Trong thư ngày 8 tháng 5 năm 1954, Bác Hồ khen: “Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ, Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Thắng lợi lớn nhưng là bước đầu, chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh lại độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình”.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Việc bảo đảm cung cấp lương thực, đạn dược cho Điện Biên Phủ là một nhân tố vô cùng quan trọng, quan trọng không kém các vấn đề chiến thuật từng ngày, từng giờ... không kém tình hình chiến đấu. Vì vậy kẻ địch không thể tưởng tượng được chúng ta có thể giải quyết được những vấn đề khó khăn ấy. Bọn đế quốc và phản động đã không đánh giá được sức mạnh vĩ đại của một dân tộc, sức mạnh của nhân dân.

Trong chiến dịch nếu không có thanh niên xung phong thì bộ đội cũng sẽ gặp khó khăn. Thanh niên xung phong đã thật sự đem tinh thần xung phong của thanh niên xung phong trên chiến trường Điện Biên Phủ, cùng quân đội, dân công, đồng bào Tây Bắc, góp phần cống hiến xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Tôi luôn coi thanh niên xung phong như bộ đội”.

Đồng chí Nguyễn Văn Trân, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng cung cấp mặt trận nhận xét: “Việc vận chuyển từ hậu phương ra tiền phương biết bao hy sinh. Phải nói rằng thanh niên xung phong là lực lượng nòng cốt không những vận tải mà còn đảm bảo giao thông trên bộ, trên sông. ở các điểm nóng của chiến dịch đều có mặt thanh niên xung phong”.

TNXP p4  anh13
Đại hội chiến sĩ thi đua Đoàn TNXP (1954) tại Việt Bắc Ảnh: T.L

Trong không khí vui mừng phấn khởi sau chiến thắng, các đơn vị bộ đội lần lượt hành quân về xuôi nhận nhiệm vụ mới còn các đơn vị thanh niên xung phong của hai Đội 34, 40 gồm 8.000 cán bộ, đội viên (kể cả số mới được bổ sung sau chiến dịch) lại nhận được chỉ thị của Ban chỉ huy Đoàn thanh niên xung phong Trung ương truyền đạt lệnh của Bác Hồ, hành quân ngược lên biên giới (Lai Châu) làm đường chiến lược, chuẩn bị cho kế hoạch mới.

Đây là bước ngoặt lớn đối với thanh niên xung phong, tư tưởng cán bộ, đội viên diễn biến khá phức tạp bởi ai cũng tưởng rằng sau thắng lợi sẽ được về thăm gia đình, quê hương, tiếp tục đi học hoặc tham gia công tác ở địa phương. Để làm thông suốt tư tưởng cán bộ, đội viên, trước hết là đảng viên, một đợt sinh hoạt học tập được tiến hành khẩn trương, nghiêm túc và chu đáo mà tài liệu là chỉ thị của Bác về ý nghĩa quan trọng của con đường, là những bài báo của Bác về thanh niên xung phong, có liên hệ kiểm điểm, biểu dương những ưu điểm, phê phán những tư tưởng thỏa mãn, tự kiêu, nghỉ ngơi... Sau khi học tập, tất cả cán bộ, đội viên đều hạ quyết tâm nhận nhiệm vụ bất kể việc gì, ở đâu.

Trừ 4 đại đội ở lại thu dọn chiến trường, sau đó trở lại sửa chữa đường Mộc Châu - Pa Hang, chuẩn bị cho kế hoạch mới, còn tất cả hành quân lên biên giới đúng thời gian quy định, mặc núi cao, vực sâu, đường dài, vác nặng. Công việc đầu tiên là làm lán trại, kho tàng cho Ban Chỉ huy công trường 111 (ngoài việc làm lán trại cho bản thân), khảo sát đường công vụ, đóng bè mảng bằng nứa sang Trung Quốc nhận và chuyển về lương thực thực phẩm (đồ khô), dụng cụ làm đường (xẻng, cuốc chim, xà beng, choòng, búa tạ, thuốc mìn, nụ xoè, dây cháy chậm...). Địa bàn đóng quân của 2 đội thuộc vùng mới giải phóng, bọn phỉ còn hoạt động chống phá nên các đơn vị phải sẵn sàng đối phó với chúng.

Thời chiến tranh, việc bảo đảm giao thông cốt làm nhanh và an toàn cho xe, pháo qua lại (cố nhiên có một số được học kỹ thuật rà phá bom các loại), còn trong thời bình lại đòi hỏi sự hiểu biết về kỹ thuật làm đường, cầu, như việc tìm tuyến đường, độ cong, độ nghiêng mặt đường, độ dốc cho phép, ta luy, rãnh thoát nước... Do vậy, giai đoạn này tất cả kỹ thuật thi công đều mới và đây thực sự là một thách thức lớn đối với thanh niên xung phong.

...Cùng với việc làm đường, thanh niên xung phong còn được Ban chỉ huy công trường giao nhiệm vụ phá thác trên sông Nậm Na, đóng thuyền gỗ để vận chuyển trên sông, đóng phà để qua lại tại 2 bến Pa Tần và Lai Châu. Hơn ba năm làm đường, thanh niên xung phong đã vượt qua vô vàn khó khăn, gian khổ: Khí hậu quá khắc nghiệt, ngày nắng nóng, đêm giá buốt thấu xương, lại còn nạn ruồi vàng, bọ chét cắn đốt sinh ghẻ lở, ốm đau, bệnh phù thũng (do thiếu vitamin), bệnh sốt rét rừng, phải chia nhau từng viên thuốc ký ninh, có khi phải ăn cháo, ăn ngô vì kho thiếu gạo... Hơn một trăm thanh niên xung phong bị tái phát bệnh do hậu quả của chiến tranh, do tai nạn lao động... đã vĩnh viễn nằm lại tại nghĩa trang Chiềng Chăn (xã Chăn Nưa). Cũng như anh em đã hy sinh ở Ngã ba Cò Nòi, Pha Đin, Tuần Giáo... anh em ở đây cũng được đồng đội chôn cất chu đáo trong hoàn cảnh có nhiều thiếu thốn. Bằng tinh thần đồng tâm hiệp lực, lao động cần cù, bền bỉ, dũng cảm và sáng tạo, chiến sĩ, đội viên thanh niên xung phong đã “kéo” các đoạn đường ngày càng dài, rộng và nối kết với nhau làm cho bà con các dân tộc thêm tin tưởng (trước khi làm đường bà con không tin vì cho rằng Pháp ở đây gần 100 năm mà đã không làm được). Các ngày Tết, ngày lễ, bà con các dân tộc với quần áo sặc sỡ, đi hàng ngày đường cùng với những gùi bánh đến tặng anh em. Thật là cảm động trước tấm lòng của những bà mẹ, những cô gái, những chàng trai các dân tộc làm ấm lòng những người xa quê vì việc nước, việc dân.

Con đường dài gần 100km từ biên giới Ma Lù Thàng (Bản Lẻng) đến thị xã Lai Châu được hoàn thành về cơ bản, trước sự vui mừng của các đồng chí lãnh đạo Trung ương, địa phương, cán bộ và đồng bào các dân tộc. Một cuộc mít tinh được tổ chức ở Lai Châu, hàng chục xe ô tô (từ biên giới Trung Quốc) chở bà con trong những bộ quần áo đẹp, tay cầm cờ hoa về dự hội. Con đường sau này được nâng cấp góp phần vào việc cải thiện dân sinh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh và quốc phòng.

… “Uống nước nhớ nguồn”, nhiều công trình đã được xây dựng để “Đền ơn, đáp nghĩa”. Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ, Đài tưởng niệm thanh niên xung phong ở Ngã ba Cò Nòi (thời chống Pháp), Đài tưởng niệm 10 cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc, Đài tưởng niệm thanh niên xung phong ở Tây Ninh (thời chống Mỹ)... mãi mãi là niềm kiêu hãnh, lòng tự hào của tuổi trẻ Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước.

Thanh niên xung phong Việt Nam trong đó có Đoàn thanh niên xung phong Trung ương, thật xứng đáng với niềm tin yêu của Bác Hồ, với phần thưởng cao quý mà Đảng và Nhà nước đã phong tặng “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”./.

Nguyễn Tiến Năng

Kim Yến (st)

Còn nữa


 

Đội 36 đoàn “XP” TNXP thời chống Pháp

Nằm trong khuôn khổ của Đoàn Thanh niên xung phong mới, ký hiệu là “XP”, đội Thanh niên xung phong 36 được thành lập vào mùa Xuân năm 1953 tại Hồng Thái, Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, giữa lúc cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược bước vào giai đoạn quyết định mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Lịch sử ra đời và trưởng thành của Đội 36 đoàn “XP” đã ghi những dấu ấn sâu đậm trong lịch sử chung của lực lượng TNXP thời kỳ chống Pháp. Đặc biệt, Đoàn “XP” và Đội 36 TNXP đã vinh dự được Bác Hồ quan tâm chỉ đạo trực tiếp về nhiều mặt cơ bản.

TNXP phan 5 anh 1
Đại đội 407 đón nhận cờ thi đua khá nhất của Bác Hồ (2/1955) Ảnh: T.L

Theo đó, năm 1953, rút kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của Đội TNXP công tác Trung ương, Bác đã chỉ ra mục đích, nhiệm vụ, phương thức công tác của TNXP theo một quy chế dân chủ, rõ ràng; TNXP được biên chế thành các đơn vị bán vũ trang, được hưởng chế độ cung cấp như quân đội. Bác cũng nhấn mạnh rằng: TNXP phải có quyết tâm lớn trong việc xung phong mọi việc, bất kỳ việc khó việc dễ và phục vụ kháng chiến đến thành công, sẵn sàng đi tới những nơi khó khăn gian khổ nhất. TNXP phải thông qua thực tiễn chiến đấu và phục vụ chiến đấu để rèn luyện con người, tạo tiền đề vững chắc để sau này trở thành những cán bộ phục vụ công cuộc kiến thiết đất nước.

Cũng nhờ có sự chỉ đạo sáng suốt của Bác mà Đoàn “XP” đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương cao quý.

Mặt khác, chính sự ra đời và có mặt của TNXP Đội 36 Đoàn “XP” vào thời điểm quan trọng mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, đã giúp cho lực lượng quân đội có điều kiện chiến đấu thắng lợi trên chiến trường ác liệt. Hầu hết các trọng điểm đều có mặt các TNXP Đoàn “XP”, như: Tuyến Sơn La, Lai Châu có Đội 34, 40; ở ATK - Thủ đô kháng chiến có Đội 36, tại tuyến giao thông chiến lược từ Thái Nguyên đến biên giới phía Bắc có Đội 38… ở đâu Đoàn cũng phục vụ chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, vượt qua muôn vàn gian khó để hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc. Xương máu của TNXP, cùng với những hy sinh của bộ đội đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy địa cầu.

Trong quá trình đó, Đội 36 Đoàn “XP” bao gồm những thanh niên ưu tú được lựa chọn từ các tỉnh miền núi phía Bắc, trung du, khu III , Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… đã tỏ rõ khí phách anh hùng ngay tại ATK – Thủ đô kháng chiến trong những ngày tháng quyết liệt của cuộc kháng chiến. Quân số của đội lúc cao nhất là 2.500 người, gồm 17 đại đội (từ C261 đến C277); Địa bàn hoạt động chủ yếu của Đội 36 trong thời gian này là ở chân Đèo Muồng thuộc chợ Chu huyện Định Hóa (Thái Nguyên) và ở Kim Quan, Yên Sơn (Tuyên Quang).

Tới khi Chiến dịch Điện Biên Phủ bước vào giai đoạn quyết định thì C269 và C274 được chuyển thẳng sang bộ đội chủ lực trực tiếp tham gia chiến đấu. Nhưng đồng thời, vinh dự đặc biệt của Đội 36 là được trực tiếp phục vụ Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước tại ATK; cùng với lực lượng công an, quân đội, tập trung thực hiện các nhiệm vụ quan trọng như: Tuần tra canh gác, bảo vệ ATK – Thủ đô kháng chiến; mở rộng, khôi phục tuyến đường bộ liên tỉnh Thái Nguyên – Tuyên Quang qua Đèo Muồng (Thái Nguyên) sang Thành Cóc, Kim Quan (Tuyên Quang) nằm ở trung tâm ATK trung ương và đường nội bộ liên cơ quan ở ATK; Đội còn tham gia đào hầm kiên cố xuyên núi phục vụ Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, nhằm phòng tránh sự đánh phá ác liệt của địch, bảo vệ cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến; xây dựng nhà ở, hội trường, kho bãi, vận chuyển cung cấp lương thực, vũ khí…

Từ các nhiệm vụ quan trọng được giao, các C đều có phương án tác chiến và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ ATK một cách tốt nhất. Đội 36 đã nhiều lần vinh dự được Bác đến thăm và động viên, căn dặn. Khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, các đại đội C266, C272 và C275 đã được giao nhiệm vụ làm nhà ở cho Bác, cho các đồng chí lãnh đạo Trung ương và khu vực ngoại giao Đoàn tại Vai Cày… Tới khi về Hà Nội, Đội 36 còn được giao nhiệm vụ chuẩn bị chỗ ở và nơi làm việc cho Bác và các đồng chí trong Bộ Chính trị, tham gia xây dựng lễ đài Quảng trường Ba Đình chuẩn bị lễ đón Bác và Trung ương Đảng, chính phủ về Thủ đô…

Kể từ khi được thành lập cho tới khi kết thúc kháng chiến thắng lợi, quá trình thực thi nhiệm vụ, cán bộ, đội viên Đội 36 TNXP luôn phát huy phẩm chất của TN XP, phấn đấu hết mình, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong sự nghiệp kháng chiến giải phóng đất nước và xây dựng tổ quốc Việt Nam thân yêu.

Trung Hà

Đội 38 đoàn “XP ” - Những dấu ấn tự hào

TNXP phan 5 anh 2
Một lớp học bổ túc văn hóa của TNXP trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp Ảnh: T.L

Tháng 3 năm 1953, trước yêu cầu nhiệm vụ khẩn trương của công cuộc kháng chiến, Đoàn TNXP mới (ký hiệu là XP) được thành lập với nhiệm vụ “Xung phong mọi việc, bất kỳ việc khó, việc dễ và phục vụ cho đến kháng chiến thành công”; gồm 4 Đại đội (C): 261, 263, 264, 266. Đoàn có nhiệm vụ đảm bảo giao thông, xây dựng kho tàng, phục vụ chiến đấu ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Tuyên Quang và ở ATK…

Tiền thân của Đội 38 chính là Đại đội 261 của Đoàn TNXP mới (XP). Cuối năm 1953, toàn đội có 2.000 người, được tổ chức thành các Đại đội: 276, 277, 278, 279, 280, 281, 282, 283, 284. Trụ sở BCH Đội đóng ở Kéo Coong (Thái Nguyên).

Sau khi ra đời, Đội 38 được giao nhiệm vụ làm nòng cốt, cùng với dân công mở đường 1B Thái Nguyên - Đồng Đăng để tiếp nhận hàng hóa viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN khác. Công việc được thực hiện trong điều kiện địch đánh phá thường xuyên, thời tiết khắc nghiệt, thiếu thốn nhiều thứ nên rất gian khổ. Nhưng toàn Đội vẫn luôn quyết tâm vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Đó là hoàn thành tuyến đường chạy dài từ biên giới Việt Trung đến Thái Nguyên nối với quốc lộ số 3, kịp thời phục vụ cho mặt trận Điên Biên Phủ và trở thành con đường lịch sử. Với cán bộ, đội viên Đội 38, những địa danh, những trọng điểm như: Đồng Bẩm, Kéo Coong, Vũ Lề, Bình Gia, Bắc Sơn, đèo Kéo Sỉnh, đèo Tam Canh, cầu Khánh Khê… mãi mãi là kỷ niệm không bao giờ phai mờ.

Tiếp nối truyền thống vẻ vang, sau ngày hòa bình, Đội 38 tiếp tục tham gia xây dựng và góp phần hoàn thành nhiều công trình lớn phục vụ công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh, như đường sắt Mục Nam Quan – Kép (Bắc Giang); khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội – Nam Định, Hà Nội – Việt Trì, Yên Bái, Lào Cai… Công việc nặng nhọc, điều kiện khó khăn thiếu thốn, nhưng không gì ngăn được ý chí và quyết tâm sắt đá của toàn Đội. Cũng chính vì vậy, cùng với lực lượng TNXP nói chung, cán bộ đội viên của Đội 38 luôn tự hào về Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân mà Đảng và Nhà nước đã trao tặng.

Ngọc Anh

Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam

Niềm tự hào của tuổi trẻ Việt Nam Lực lượng Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam (tập trung) được thành lập khi cuộc chiến tranh do đế quốc Mỹ tiến hành chuyển từ “chiến tranh đặc biệt” sang “chiến tranh cục bộ”. Hàng chục vạn quân Mỹ và chư hầu ồ ạt kéo vào miền Nam nước ta.

Chiến trường chính, nơi đọ sức quyết liệt giữa lực lượng chủ lực hai bên là miền Đông Nam Bộ. Nơi đây, địch gom dân, kềm kẹp gắt gao, thực hiện triệt để chính sách cướp sạch, đốt sạch, giết sạch tàn bạo. Trong bối cảnh đó, vấn đề phục vụ bộ đội chủ lực chiến đấu, trở nên cực kỳ khó khăn, cấp bách. Không thể sử dụng dân công thông thường, chiến trường chính của lực lượng chủ lực bấy giờ, đòi hỏi một lực lượng phục vụ thật đặc biệt, rất cơ động, linh hoạt sát cánh với bộ  đội như bóng với hình trong mỗi chiến dịch, mỗi trận đánh.

Trước tình hình và yêu cầu nhiệm vụ mới, được sự lãnh đạo của Trung ương Cục, Đại hội Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng Việt Nam lần thứ nhất, tháng 3 năm 1965 - đã phát động phong trào “5 xung phong” trong đó có xung phong đi dân công phục vụ chiến đấu. Lúc bấy giờ ở các tỉnh, thành đều có tổ chức Thanh niên xung phong đi phục vụ chiến trường tại địa phương.

Ngày 20-4-1965, Đội Thanh niên xung phong Giải phóng miền Nam đầu tiên làm lễ xuất quân với 108 nam, nữ cán bộ, đoàn viên, thanh niên rút từ các cơ quan trực thuộc Trung ương Cục, nòng cốt là cơ quan Trung ương Đoàn. Tiếp theo đó, từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ, từ đồng bằng sông Cửu Long từng đoàn thanh niên xung phong đã vượt sông suối núi rừng, vừa hành quân vừa đánh địch, lần lượt tập trung về R. Mười một đội, mỗi đội có quân số tương đương một đại đội, nhanh chóng được thành lập. Về sau, từ các đội đã hình thành 3 Liên đội 5, 7, 9 sát cánh phục vụ ba sư đoàn chủ lực 5, 7, 9 của quân giải phóng.

Vừa xuất quân, thanh niên xung phong đã phục vụ ngay có hiệu quả các trận đánh Mỹ nổi tiếng đầu tiên: Phước Long, Đồng Xoài, Bông Trang - Nhà Đỏ... Ngay từ buổi đầu, thanh niên xung phong đã rất được bộ đội yêu mến, tin cậy. Trước các trận đánh, thanh niên xung phong đi chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết về hậu cần. Trong các trận đánh thanh niên xung phong sát cánh với bộ đội, cùng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, khiêng chuyển chiến thương ra tuyến sau. Sau trận đánh, thanh niên xung phong vẫn ở lại thu dọn chiến trường, không để sót thương binh. Trên đường về hậu cứ, trong mưa bom lửa đạn, có biết bao trường hợp thanh niên xung phong đã lấy thân mình che chở cho thương binh quyết không để anh em bị thương lần thứ hai.

Chỉ trong thời gian từ tháng 4/1965 đến tháng 4/1968, quân số từ 108 người lên 5000 người (2/3 là nữ), một Đội lên 11 Đội, 03 Liên đội, trường huấn luyện và các cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần được tăng cường, đảm bảo cho chỉ đạo, chỉ huy của Tổng đội.

Nhằm giáo dục, phát huy truyền thống cách mạng cho cán bộ, đội viên, từng đơn vị lấy danh, phiên hiệu theo ngày, tháng thành lập, tên anh hùng liệt sĩ hoặc trận đánh, địa danh nổi tiếng của địa phương v.v… Những tên Đội, nhiều năm gắn bó, máu xương không thể quên như: Đội 198 Thành Đồng; 29 Hiệp Hòa anh dũng (LA); 2311 Hoàng Lê Kha (TN ); 112 Phú Lợi căm thù (TDM); 1265 Bình Giã chiến thắng (BH, BR, BT); 2012 Nguyễn Văn Tư (BT); 2163 ấp Bắc 2 (MT); 32 Tây Đô (CT ); 239 Nguyễn Việt Khái (CM); 1167 Đông Xuân quyết thắng (TV ). Phiên hiệu của các Liên đội gắn với phiên hiệu của các sư đoàn chủ lực (9, 5, 7).

Từ năm 1969 – 1972, sau tổng tấn công Mậu Thân 1968, để giành lại thế chủ động trên chiến trường, địch bung ra đánh phá rất quyết liệt. Tổng đội nhận nhiệm vụ chuyển các Liên đội sang đảm trách các tuyến đường vận chuyển trọng điểm phục vụ cho bộ đội, bám trụ đánh địch phản kích… Thực hiện nhiệm vụ này trong thời điểm cực kỳ khó khăn, lực lượng bị tổn thất Mậu Thân 1968 chưa kịp bổ sung, địch phản công chiếm lại nhiều vùng quan trọng, cắt đứt nhiều tuyến vận chuyển huyết mạch của ta… Nhiệm vụ lúc này không còn phối thuộc mà phối hợp với 1 số Đoàn hậu cần để thực hiện nhiệm vụ, nên việc tổ chức, chỉ đạo, chỉ huy của Tổng đội phải thay đổi cho phù hợp với nhiệm vụ được giao.

Liên đội 9 phối hợp với Đoàn 82 xây dựng và đảm trách tuyến vận chuyển Tây Ninh – Dầu Tiếng.

Liên đội 5 phối hợp với Đoàn 84 (T7) Bà Rịa – Long Khánh nối với Bình Long, Phước Long.

Liên đội 7 phối hợp với các đoàn 70, 83 địa bàn Dầu Tiếng – Chơn Thành – Bến Cát (khu tam giác sắt) và chuyển lên phối hợp Đoàn 85 nối tuyến Nam Trường Sơn (Nam Bắc sông Măng, Bình Long).

Đầu năm 1971 theo cấp trên chỉ đạo, Tổng đội vận động tuyển quân (TN Việt Kiều CPC) nhận quân của liên đội TNXP phân khu II (Long An), rút cán bộ, đội viên của Tổng đội xây dựng một tiểu đoàn 600 quân, trang bị mạnh, phiên hiệu D 601 phối hợp với bộ đội, giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở Campuchia (Lon-nôn đảo chính Xi-ha-núc).

Năm 1969 – 1972 là giai đoạn lực lượng TNXP chịu đựng nhiều gian khổ, khó khăn ác liệt và hy sinh nhiều nhất để bám trụ địa bàn, tuyến đường trọng điểm mà Mỹ tăng cường đánh phá rất ác liệt và góp phần giải phóng một số vùng rộng lớn của Campuchia.

Đầu năm 1973, nhận chỉ thị của Trung ương Cục, Thường vụ Trung ương Đoàn giao nhiệm vụ cho Tổng đội tổ chức 01 tiểu đoàn, quân số 450 người, trang bị đầy đủ chuyển sang công an vũ trang miền Đông Nam Bộ, phiên hiệu D579. Thành lập Đoàn 1 (Thiên Ngôn) tiếp đón, nuôi dưỡng 3.500 cán bộ, chiến sĩ được trao trả và tuyển chọn 160 cán bộ, đảng viên tăng cường cho các khu, tỉnh, thành. Lập trường văn hóa thanh niên trực thuộc Thường vụ Trung ương Đoàn, đào tạo cán bộ và tham gia tiếp quản Sài Gòn – Gia Định 30/4/1975.

TNXP tập trung không thời hạn của các khu, tỉnh… Nam Bộ (B2) cùng thời điểm đưa quân xây dựng lực lượng TNXP của miền (R), các tỉnh phát triển xây dựng lực lượng phục vụ cho bộ đội chủ lực tại địa phương.

Tháng 4/1967, Khu ủy Khu 6 (T6) cực nam Trung Bộ thành lập Đoàn vận tải H50, nòng cốt là C2 TNXP Bình Thuận, phát triển thành 7 đại đội (Đội) gồm các đơn vị TNXP Hàm Thuận, Phan Thiết, Hàm Tân, Hoài Đức, Thuận Phong, Hòa Đa và Tuy Phong, mở tuyến đường từ Phước Long đến Bình Thuận, chuyển vũ khí, lương thực phục vụ cho chiến trường cực Nam Trung Bộ (số quân mỗi Đại đội 100 – 150 người).

Đầu năm 1967 đến Mậu Thân 1968, các tỉnh miền Trung Nam Bộ (T2), mỗi tỉnh thành lập một Đội, các tỉnh Bến Tre, Mỹ Tho, Long An thành lập 2 đội, mỗi đội quân số 150 – 200 người, Phân khu II (Long An) thành lập 1 Liên đội phối hợp với Liên đội 9 TNXP miền phục vụ Tổng tấn công Mậu Thân (1968).

Tháng 8/1967, miền Tây Nam Bộ (T3) thành lập liên đội 1 (500 người), thành lập Liên đội 2 phục vụ tổng tấn công Mậu Thân (473 người) và sau Mậu Thân 1968 xây dựng tuyến đường 1C từ biên giới Campuchia (Hà Tiên) đến Cà Mau, phục vụ cho chiến trường miền Tây Nam Bộ, được mệnh danh là “con đường lửa – máu”.

Ngoài lực lượng TNXP tận trung không thời hạn, các tỉnh còn tổ chức TNXP cơ sở có thời hạn 3 tháng, 6 tháng làm nòng cốt cho huy động dân công hỏa tuyến, xây dựng vùng nông thôn giải phóng v.v… Bến Tre có hơn 10.000, Mỹ Tho, Long An có 5.000 và các tỉnh có từ 500 đến 1000 đội viên. Hình thức, nội dung hoạt động của TNXP cơ sở đa dạng, phong phú và cũng chịu nhiều gian khổ, hy sinh.

TNXP phan 5 anh 3
TNXP thồ vũ khí phục vụ mặt trận Ảnh: T. L

Trong phục vụ chiến đấu và chiến đấu, lao động, học tập, rèn luyện, tổng đội TNXP GPMN của miền (R) lập được những thành tích rất đáng tự hào (số liệu 6 năm):

- Phục vụ 641 tận đánh cấp trung đoàn trở lên, vận chuyển 20.513 tấn vũ khí, lương thực… (chủ yếu bằng đôi vai); ra trận địa nhận 9.062 thương binh đưa về tuyến sau; trực tiếp chăm sóc, bảo vệ 2.077 thương binh và tiếp đón, nuôi dưỡng 3.500 cán bộ, chiến sĩ được trao trả; đào 1.535 hầm phẫu thuật (52.913m3 đất); xây dựng 8 bệnh viện dã chiến; 272 kho chứa hàng (10 – 20 tấn); mở 284 km đường thồ (29 km đường ô tô) và bắc 21 cây cầu cho xe thồ…

- Trực tiếp chiến đấu trên 40 trận từ cấp trung đội đến cấp tiểu đoàn. Diệt và bắt sống 1.119 tên địch (556 lính ngụy, 286 Mỹ, 7 Pắc chung hy, 270 lính Lon-nôn Campuchia), bắn cháy, phá hủy 10 xe tăng M. 113 và 5 máy bay… thu nhiều vũ khí.

- Chuyển sang công an vũ trang 1 tiểu đoàn và quân đội 1 đại đội tổng số 600 người; đào tạo và chuyển 242 cán bộ về tăng cường cho các địa phương; đào tạo 642 cán bộ nghiệp vụ, chuyên môn và xóa mù chữ (hết lớp 4) cho 732 người.

Với chân đồng, vai sắt, thanh niên xung phong khiêng thương, tải lương  thực, thuốc men, vũ khí, đạn dược, đi trên nhiều đoạn đường dài hiểm nguy, bất chấp bom đạn, gió mưa, đêm tối, mắt đăm đăm nhìn thẳng về phía trước. Với cái “bụng thần tiên”, thanh niên xung phong dù ăn uống thanh đạm, kham khổ, thiếu thốn, lắm lúc đói cơm lạt muối, vẫn phục vụ hết mình. Nhiều trường hợp, thanh niên xung phong thay cho thương binh cầm súng hoặc cướp vũ khí của địch diệt địch, trở thành dũng sĩ diệt Mỹ, bắt sống tù binh Mỹ và chư hầu, phá hủy xe tăng, bắn rớt trực thăng địch…

Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam là một trong những hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc.

Lê Quang Thành (Nguyên Bí thư Trung ương
Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng Việt Nam)

Liên đội 9 Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam

Ngày 20/4/1965, lực lượng Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam ra đời, khởi đầu bằng đội C100.

Ngày 19/8/1965, Liên đội 9 Thanh niên xung phong thành lập, khởi đầu là Đội 198 (Đội Thành Đồng) theo cơ chế Đại đội. Ngày 23/9/1965 thành lập Đội 239 (Đội Nguyễn Việt Khái) và ngày 20/12/1965 phát triển thêm Đội 2012 (Đội Đồng Khởi).

Như vậy, Liên đội 9 là Liên đội hình thành sớm nhất của Tổng đội Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam và gắn liền với Sư đoàn 9 quân giải phóng miền Nam trực tiếp đụng đầu với cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ từ những ngày đầu tiên.

Liên đội đã trực tiếp phục vụ các trận đánh lớn của quân chủ lực ở Bầu Bàng (2 và 3), Dầu Tiếng, Căm Xe, Nhà Đỏ - Bông Trang, Cần Đâm, Cần Lê, Sa Cát v.v...

Trực tiếp phục vụ bộ đội qua các chiến dịch lớn đánh quân Mỹ như: At - tơn - bo - rơ (1966), Xê-đa-phôn (1967), Gian-xơn Xi-ty (1967).Thành tích phục vụ của Liên đội:

- 401 trận lớn, nhỏ

- Băng bó, sơ cứu và tải thương 6.415 cáng, trực tiếp chăm sóc 1.240 thương binh.

- Vận tải trên 1 vạn tấn gạo, không kể súng, đạn các loại và nhiều thành tích chiến đấu trực tiếp để bảo toàn lực lượng.

- Sư đoàn 9 tặng Liên đội 9 lá cờ thêu 14 chữ vàng: “Đoàn kết khiêm tốn, phục vụ chí tình, sống anh dũng, chết vinh quang”.

- Liên đội có phong trào thi đua nổi tiếng: “3 rút ngắn” (nhận nhanh, đi nhanh, giao nhanh).

Nhận nhanh: Ràng, cột từ 1 giờ xuống còn 30 phút.

Đi nhanh: Qua cầu người đi trước trở lại rước người đi sau.

Giao nhanh: Giao nhận xong đi về đường khác không để đụng đầu ách tắc giao thông.

Liên đội 9 là đơn vị Thanh niên xung phong có nhiều tấm gương cá nhân, tập thể tiêu biểu xứng đáng là lá cờ đầu của lực lượng Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam.

(Theo “Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam...”

Sở Văn hóa - Thông tin TP Hồ Chí Minh xuất bản - 2001)

Đội Thanh niên xung phong 198 “Thành Đồng”

Đội Thanh niên xung phong “Thành Đồng” là một trong những đơn vị có nhiều tuổi đội nhất trong các đội Thanh niên xung phong giải phóng miền Nam.

Là một đơn vị TNXP có nhiều kinh nghiệm phục vụ chiến trường, được tôi luyện nhiều năm, nên ngoài thành tích vận chuyển hàng vạn tấn vũ khí đạn dược, bám sát bộ đội dưới làn bom pháo để làm nhiệm vụ, Đội còn có thành tích nổi bật về phát huy sáng kiến trong lao động, dũng cảm xông xáo trong phục vụ chiến đấu, kiên trì và quyết tâm trong công tác xây dựng nội bộ về các mặt.

Trong công tác phục vụ chiến đấu, anh chị em trong đội đã luôn luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất vượt chỉ tiêu đề ra. Nơi hỏa tuyến, các anh chị em luôn luôn nâng cao tinh thần phục vụ quên mình. Với tinh thần đó, trong một năm, đội Thanh niên xung phong “Thành Đồng” đã phục vụ 12 trận đánh lớn nhỏ. Có trận phải cùng bộ đội ăn cơm vắt 8 ngày liền, nằm phục kích chờ giặc. Có trận ngoài hành trang của mình, mỗi người phải mang 4,5 trái đạn cối 82 ly. Có nhiều cuộc hành quân hàng trăm cây số, nhưng không một anh chị em nào than vãn. Trong phục vụ chiến đấu, có nhiều yêu cầu đột xuất đề ra, nhưng các anh chị em trong đội Thanh niên xung phong “Thành Đồng” đều xông vào đáp ứng với tinh thần tự giác rất cao.

Cũng chính trong khung cảnh phục vụ chiến đấu rất gian khổ này, tình thương yêu đồng đội được thử thách và luyện rèn. Mặc dù công tác ở chiến trường thiếu kém về vật chất, nhưng anh chị em luôn luôn phát huy tinh thần khắc phục khó khăn, phát huy sáng kiến để cải thiện đời sống vật chất của Đội.

Nhờ tổ chức chỗ ăn, chỗ ở và cải thiện đời sống vật chất được tốt, nên tỷ lệ quân số phục vụ luôn đạt cao; Có lúc lên đến 100%. Thành tích trên đây, đã nói lên sự cố gắng vượt bậc của Đội thanh niên xung phong “Thành Đồng”. Họ xứng đáng là những chiến sĩ “Thành Đồng” của lực lượng TN XP giải phóng miền Nam.

(Theo “TNXP giải phóng miền Nam”
Sở Văn hóa - Thông tin TP Hồ Chí Minh xuất bản - 2001)

Truyền thống hào hùng của Thanh niên xung phong khu V

Phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, cuối năm 1953, Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh chủ trương mở mặt trận Bắc Tây Nguyên nhằm đánh bại cuộc càn át-Lăng nằm trong kế hoạch Nava của giặc Pháp. Liên khu ủy Liên khu V chủ trương “Huy động nỗ lực cao độ của Đảng bộ và quân dân toàn khu ra sức chiến đấu giữ vững vùng tự do, đồng thời tập trung sức lực phục vụ đắc lực mặt trận Bắc Tây Nguyên”. Liên khu Đoàn V vận động thanh niên thành lập các chi đội, liên chi đội thanh niên xung phong hỏa tuyến, đợt đầu gần l.000 đội viên phục vụ mặt trận Đường 19, An Khê, Mang Đen, Mang Bút và phục vụ bộ đội tấn công giải phóng thị xã Kon Tum tiêu diệt hơn 2.000 tên địch, buộc Bộ Chỉ huy quân sự Pháp bỏ dở cuộc càn át-Lăng ở Phú Yên. Tháng 4-1954, để thống nhất tổ chức thanh niên xung phong tập trung, các đơn vị thanh niên xung phong hoả tuyến gấp rút bổ sung quân số và hình thành biên chế tiểu đội, trung đội, đại đội, mỗi đại đội có từ 200 đến 250 đội viên. Đúng ngày 20-4-1954, Tổng đội thanh niên xung phong Liên khu V gồm 4.000 cán bộ, đội viên mang phiên hiệu TĐ204 chính thức ra đời do đồng chí Phó Bí thư Đoàn Liên khu Lê Văn Chắt làm Tổng đội trưởng.

Qua một thời gian phục vụ chiến đấu, có gần l.000 đội viên thanh niên xung phong được tuyển chọn bổ sung vào các đơn vị quân đội. Tổng kết thành tích phục vụ chiến dịch Bắc Tây Nguyên có 15 đội viên thanh niên xung phong được bầu là chiến sĩ thi đua, đặc biệt có 3 chiến sĩ thi đua tiêu biểu nhất là các đồng chí vừa là nội dung, vừa là phương thức hoạt động đặc biệt quan trọng của Đoàn và được chú trọng không chỉ ở vùng giải phóng, căn cứ cách mạng mà còn được giáo dục, vận động thanh niên, học sinh, sinh viên trong các đô thị và vùng địch tạm chiếm. Trong thời gian trước và sau cuộc Tổng tiến công, nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, hàng trăm học sinh, sinh viên các thành phố Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang đã tìm cách hóa trang, tạo thế hợp pháp thoát ly lên vùng căn cứ kháng chiến tham gia lực lượng Thanh niên xung phong. Một số cấp bộ Đoàn trong vùng địch kiểm soát đã vận động, giác ngộ thanh niên, tổ chức được một số Đội Thanh niên xung phong bí mật hoạt động làm nhiệm vụ phục vụ các đội vũ trang tuyên truyền diệt ác ôn, đào hầm bí mật, bảo vệ cán bộ, chăm sóc, cứu chữa và chuyển thương binh ra vùng giải phóng... Ban Thường vụ Khu Đoàn V lập bộ phận chỉ đạo toàn bộ lực lượng Thanh niên xung phong các địa phương, vừa trực tiếp phụ trách Tổng  đội Thanh niên xung phong mang tên Quyết Thắng gồm 2.000 đội viên có nhiệm vụ bám theo phục vụ các sư đoàn bộ đội chủ lực và trực thuộc Cục Hậu cần quân khu V. Ngoài ra còn có một số tiểu đoàn Thanh niên xung phong hoạt động dưới sự chi đạo của Bộ Tư lệnh Đoàn 559 Quân Giải phóng.

Ở hầu hết 10 tỉnh Khu V, các Tỉnh Đoàn đều tổ chức các Đội Thanh niên xung phong tập trung, tổng quân số toàn khu có trên 15.000 đội viên. Đặc biệt, Tổng đội Thanh niên xung phong Hắc Hải của tỉnh Quảng Ngãi lúc cao nhất có 12.000 đội viên và đã tuyển chọn trên 500 đội viên bổ sung vào quân đội thành lập trung đoàn 240 trực thuộc Quân khu.

Được tôi luyện trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hàng vạn Thanh niên xung phong Khu V cùng với hàng chục vạn thanh niên xung phong cả nước tuân theo lời dạy của Bác Hồ, thật sự đã trở thành một binh chủng đặc biệt, phát huy mạnh mẽ vai trò xung kích cách mạng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi oanh liệt của dân tộc; Đồng thời đã tôi rèn bản chất cách mạng, trở thành một đội ngũ cán bộ đông đảo thuộc các lĩnh vực, các ngành, các cấp phục vụ tích cực vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

Nguyễn Thanh Lương

(Cựu thanh niên xung phong Khu V)

Đội TNXP 25 với Đường 20 quyết thắng

Một kỳ tích ở Trường Sơn... Đường 20 Quyết Thắng xuyên qua Trường Sơn hùng vĩ trong những năm đánh Mỹ được coi là con đường huyền thoại. Nhắc đến Đường 20 Quyết Thắng như nhắc đến một bản hùng ca ngân vang trong đại hợp xướng về đường Hồ Chí Minh lịch sử, đảm bảo chi viện kịp thời, hiệu quả cho chiến trường miền Nam. Đường 20 nối từ Đông Trường Sơn sang Tây Trường Sơn được mở, nhằm phá thế độc đạo của đường 12, khắc phục túi nước Xiêng Phan gây ách tắc toàn bộ hoạt động vận chuyển, đi lại vào mùa mưa ở Trường Sơn; đồng thời đáp ứng yêu cầu chi viện sức người, sức của ngày một lớn cho chiến trường trong điều kiện đế quốc Mỹ từ “chiến lược chiến tranh đặc biệt’’ chuyển sang “chiến lược chiến tranh cục bộ” và tăng cường đánh phá hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn vào miền Nam.

Đường 20 Quyết Thắng khởi đầu từ Phong Nha qua Aki - Talê - đèo Phu Lai Nhích, dài 125km, trong đó có 41km xuyên qua vùng núi đá hết sức hiểm trở. Theo chỉ lệnh của Quân ủy Trung ương, thời gian thi công không quá 105 ngày, tức là mỗi ngày phải làm xong trên 1km đường rừng hiểm trở, nhất là đoạn 41km đường xuyên vùng núi đá. Lễ phát lệnh mở đường vào lúc 17h30 ngày 30 tết Bính Ngọ (1966), toàn tuyến nổ đợt bộc phá đầu tiên đón xuân mở màn chiến dịch. Tham gia mở đường cùng với bộ đội và các lực lượng khác có các đội TNXP: Đội 25 Hà Nam, Đội 23 Hà Tĩnh, Đội 4 Ninh Bình, Đội 3 Quảng Bình - Nghệ An, sau này được bổ sung thêm Đội 8 Thái Bình - Hà Tây và TNXP nhiệm kỳ 2 của Thanh Hóa. Trong tổng số trên 4000 người, đội viên nữ chiếm trên 40%. Với phương châm triển khai nhanh, hiệu quả, đảm bảo bí mật, việc mở đường vận hành theo phương thức chia công đoạn cuốn chiếu, tổ chức thi công liên tục. Đường mở tới đâu, được ngụy trang tới đó, bằng việc chăng dây leo và cây rừng để che mắt địch. Trên toàn tuyến đường, các lực lượng đều hừng hực khí thế thi đua lao động; nổ mìn phá đá, tay choòng, tay búa, tay cuốc, tay xẻng ai cũng lao động quên mình, quên ngày, quên đêm. Vượt qua sự soi mói đánh phá của địch, vượt qua gian khổ khó khăn của cuộc sống trong rừng già âm u giữa mùa mưa tầm tã, ẩm ướt, quần áo phơi không khi nào khô, bệnh tật, ghẻ lở... đặc biệt là bệnh sốt rét rừng hoành hành, sau 77 ngày đêm làm việc cật lực với ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, ngày 27/4/1966 Đường 20 Quyết Thắng đã được thông tuyến, cho vận chuyển nội bộ; tới ngày 31/5/1966 những chuyến hàng chi viện đầu tiên bằng xe cơ giới cho miền Nam qua Đường 20 được thực hiện, phục vụ kịp thời cho chiến trường đánh lớn thắng to.

Trong các đơn vị TNXP tham gia mở đường và đảm bảo giao thông, đơn vị tiêu biểu nhất là đội TNXP 25 – những cô gái, chàng trai của quê hương Hà Nam (đơn vị này có sự lãnh đạo song trùng của Binh trạm 14 đoàn 559, Ban Xây dựng 67 và Trung ương Đoàn). Đội 25 được tuyên dương Anh hùng năm 1972 (năm 1970 Đội 23 và Đội 25 sáp nhập thành đội 25). Đội 25 TNXP là một trong những lực lượng tham gia bổ nhát cuốc đầu tiên mở Đường 20 và là một trong những chủ công tại đây trong những năm tháng đảm bảo thông đường cho xe qua; Đội đã phải chống chọi với sự đánh phá khốc liệt của địch. Chỉ tính riêng năm 1967, đoạn đường do đội 25 phụ trách đã phải chịu đựng 1454 trận đánh phá bằng máy bay phản lực và 32 trận máy bay B52 ném bom rải thảm. Tính bình quân mỗi đội viên phải chịu đựng trên 100 quả bom cỡ lớn, chưa kể hàng vạn quả bom bi, đạn 20 ly, đạn rốc két...

Mùa Xuân Mậu Thân năm 1968, mức độ oanh kích đánh phá của địch càng tăng lên gấp bội hòng bịt chặt cửa khẩu vượt Trường Sơn, hủy diệt vị trí yết hầu con đường ra trận của ta.

Chỉ tính trong thời gian này, bình quân mỗi đội viên Đội TNXP 25 phải chịu đựng 145 quả bom cỡ lớn. Riêng trọng điểm cua chữ A do C5 thuộc Đội TN XP 25 đảm nhận, phải chịu đựng 969 lần oanh kích của pháo đài bay B52, ngày cao nhất có tới 23 lần chiếc B52 đánh phá với trên 10.000 tấn bom. Bình quân mỗi người trụ ở cua chữ A phải chịu đựng 606 quả bom cỡ lớn, chưa kể trên 2000 trận đánh phá bằng máy bay phản lực với hàng vạn tấn bom đạn các loại. Đêm đêm địch thả 600 - 700 quả pháo sáng trên trọng điểm để phát hiện mục tiêu và uy hiếp tinh thần của những người mở đường, có thời gian địch đánh phá liên tục cả tháng trời, cả đại đội bất chấp hy sinh, gian khổ, lăn lộn không kể ngày đêm, cứu xe, san đường… nhưng tất cả cán bộ, chiến sĩ C5 không lùi bước. Với ý chí quyết tâm sắt đá: “Máu chúng ta có thể đổ nhưng đường chúng ta không thể tắc”, “Quyết tử cho cua chữ A quyết thông”, trong bất kỳ hoàn cảnh địch đánh phá ác liệt đến mức nào C5 vẫn đảm bảo thông đường, thông xe.

Có ngày cao điểm ở cua chữ A, sau 15 giờ chiến đấu liên tục đơn vị đã phá gần 100 quả bom, đắp thêm 3.000m3 đất, nối lại được đoạn đường dài 700m, phục vụ các đoàn xe vận tải cấp tốc ra chiến trường.

Nhiều đội viên TN XP đã dũng cảm vượt qua bom đạn giặc để đảm bảo mạch máu giao thông luôn chảy. Nhiều anh chị em như Nguyễn Thị Liệu, Lê Thị Phương Thảo, Lại Thị Tuyết... đã dùng dù pháo sáng quàng vào người đứng thành hàng cọc tiêu sống trong nhiều giờ liền ở ngầm Ta Lê hướng dẫn đoàn xe hàng trăm chiếc vượt trọng điểm giữa lúc tiếng máy bay, tiếng bom đạn vang rền...

Đường 20 Quyết thắng, con đường được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: “Là một kỳ công, kỳ tích, kỳ quan do ý chí vì độc lập tự do của chiến sĩ và thanh niên xung phong làm nên” đã đi vào tâm khảm của hàng nghìn cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong đã tham gia mở đường và cả thế hệ trẻ kế tiếp nhớ về con đường 20 huyền thoại, nhớ tới những liệt sĩ, những người anh hùng như: anh hùng liệt sỹ Nguyễn Thị Nhạ, anh hùng liệt sỹ Nguyễn Thị Vân Liệu, anh hùng Vũ Tiến Đề, anh hùng Nguyễn Phong Lưu…; nhớ về những năm tháng hào hùng của một thế hệ thanh niên đầy nhiệt huyết đã cống hiến cả tuổi xuân cho con đường. Trong cuộc chiến đấu và lao động vô cùng quyết liệt ở Đường 20 Quyết Thắng, Đội TNXP 25 nói chung và C5 nói riêng đã tỏ rõ bản lĩnh kiên cường, dũng cảm của thanh niên Việt Nam thế hệ Hồ Chí Minh. Riêng C5 đã có 52 liệt sỹ (trong số 92 liệt sỹ TNXP của tỉnh Hà Nam hy sinh trên Đường 20 Quyết Thắng và trong tổng số 321 liệt sỹ TN XP của tỉnh Hà Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước) và có 04 người được phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng: Nguyễn Thị Vân Liệu (Anh hùng LLVT - 2000), Nguyễn Thị Nhạ (Anh hùng LLVTN D - 1968), Nguyễn Phong Lưu (Anh hùng Lao động - 1968), Vũ Tiến Đề (Anh hùng Lao động - 1968)… Toàn Đội TNXP 25 đã được Đảng và Nhà nước phong tặng Danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân và C5 cũng đang được đề nghị Đảng và Nhà nước xét tặng danh hiệu cao quý này.

Trong đạn bom ác liệt cùng bao khó khăn, gian khổ, với chiến công mở đường và đảm bảo thông đường cho những chuyến xe qua, lực lượng TNXP làm nhiệm vụ trên Đường 20 Quyết Thắng vinh dự góp phần thực hiện thắng lợi chiến dịch “Chọc thủng Trường Sơn mở đường thắng lợi”. Đó là biểu hiện của ý chí kiên cường, của sự thông minh, sáng tạo; biểu hiện sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng của lực lượng TNXP, của tuổi trẻ đội 25. Đứng ở tuyến đầu, TNXP là một trong những lực lượng tiêu biểu góp phần làm nên thắng lợi trong việc khai mở và đảm bảo cho những con đường chiến lược huyết mạch ra chiến trường luôn được thông suốt, góp phần làm nên chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để có một mùa xuân đại thắng trọn vẹn của dân tộc - mùa xuân năm 1975 lịch sử trong thế kỷ XX hào hùng.

Lê Phương Thảo

Đội TNXP 303 trên đường Trường Sơn năm xưa

Đó là những tháng mùa khô cuối năm 1972. Trên mặt trận đường Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh, một tuyến đường bộ chủ yếu chi viện Bắc Nam, đã qua hơn 10 năm gồng mình hứng chịu hàng ngàn tấn bom đạn của giặc Mỹ, cuộc chiến của bộ đội Trường Sơn chống cuộc chiến tranh ngăn chặn của đế quốc Mỹ đã cơ bản thắng lợi. Hiệp định Paris ngày 27-01-1973 được ký kết. Mỹ và chư hầu buộc phải rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam.

Thời cơ chiến lược mới xuất hiện. Chúng ta dồn sức chuẩn bị cho cuộc chiến cuối cùng, đánh đổ tiếp ngụy quyền, thời cơ có một không hai, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước trong một thời gian ngắn.

Trên tuyến chi viện Bắc Nam, bộ đội Trường Sơn chuẩn bị lại thế trận cầu đường mới sẵn sàng chuyển vận toàn bộ sức mạnh mới của miền Bắc chi viện cho miền Nam.

Đội thanh niên xung phong Hà Tây (cũ) nằm trong kế hoạch động viên quy mô lớn này, được Tỉnh uỷ và Tỉnh đoàn Hà Tây (cũ) lãnh đạo, tổ chức tuyển người vào tuyến và được Bộ Tư lệnh Trường Sơn bố trí về trực thuộc cùng với Trung đoàn công binh E98, một Trung đoàn công binh cơ động, vào tuyến sớm nhất, đã qua các chiến trường Trường Sơn, từ Bắc vào Nam, từ Tây sang Đông, lúc này đang đứng chân trên dải tuyến phía đông từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Nam, với một nhiệm vụ khá nặng nề. Được tin này, mọi người đều vui mừng phấn khởi, như được tăng thêm sức mạnh mới.

Một ngày đầu tháng 1-1973, trong một doanh trại nhỏ của cơ quan E bộ E98 ở Trao, lãnh đạo, chỉ huy E98 và cơ quan đã có cuộc gặp mặt và giao nhiệm vụ đầu tiên cho lãnh đạo Đội 303 thanh niên xung phong.

Đội thanh niên xung phong 303 được tổ chức, bao gồm 500 nam nữ thanh niên, các huyện, thị trong tỉnh, hoàn toàn tình nguyện, rất mong được nhanh chóng vào chiến trường, và rất quyết tâm hoàn thành bất kể nhiệm vụ gì, thực hiện lời hứa với quê hương của chiếc gậy Trường Sơn: “Thanh niên Hà Tây ra đi là chiến thắng”. Công việc biên chế được tổ chức khẩn trương và phù hợp. Có đại đội thanh niên được bố trí giữ nguyên, có đại đội được phân tán bố trí trong các đội hình của đơn vị công binh. Nhưng đều có cán bộ 2 đơn vị phụ trách mà E98 là chủ trì. Các cán bộ kỹ thuật được tăng cường đến từng đại đội. Một thời gian ngắn, nếp sinh hoạt làm việc đã như là trong một đơn vị. Toàn đội đã được ra quân trên một tuyến dài gần 150km do E98 phụ trách từ ASầu-ALưới tỉnh Thừa Thiên Huế, qua Bù Lạch, Xưởng Giấy; biên giới Việt Lào đến Trao - Bung - Bến Giàng thuộc tỉnh Quảng Đà. Bao điều mới lạ, bao khó khăn chồng chất mà đơn vị đã trải qua.

Tuyến đường A Lưới- ASầu nằm gọn trong thung lũng phía Tây dài gần 20km trong một địa hình tương đối bằng phẳng, nơi đây đã từng diễn ra cuộc chiến liên tục của bộ đội Trường Sơn gần chục năm trời. Hàng ngàn lần máy bay của địch đã tiến hành đánh phá huỷ diệt, ở đây cũng từng diễn ra cuộc chiến trên bộ giữa bộ đội Trị Thiên, bộ đội Trường Sơn với lính Mỹ - Ngụy, mà điển hình là chiến thắng Cô Ca Va diệt hàng trăm lính thuỷ đánh bộ Mỹ giữa tuyến đường Trường Sơn. Mỹ đã phải bỏ chạy. Một tuyến đường không còn ra đường, bị bom đạn quần tan nát, lầy lội ẩm ướt. Chính nơi đây, đội thanh niên xung phong đã cùng E98 nhanh chóng rải quân, họ chỉ có trang bị đơn sơ, cây cuốc, cây xẻng, chiếc bừa gỗ, ngày ngày đầm mình trong vùng trống trải, thời tiết khô hanh, vùng biên giới khắc nghiệt, không biết nơi đây đã bị đế quốc Mỹ rải hàng chục nghìn lít chất độc màu da cam. Đội vẫn làm việc miệt mài, san lấp hố bom, rải đá mặt đường và hàng ngày căng ra để chống lầy cho các đoàn xe vằn mình đưa hàng ra phía trước.

TNXP phan 5 anh 4
Bất chấp bom đạn của kẻ thù, những đoàn xe vẫn nối đuôi nhau ra trận Ảnh: T.L

Một số phân đội đã phải sống cùng với núi cao hiểm trở trên biên giới Việt Lào hàng tháng trời. Bù Lạch - Adớt ngày đêm âm u, chỉ thấy sương mù bao phủ, ít thấy ánh sáng mặt trời, nhưng anh chị em vẫn không quản ngại. Một số chị em rất trẻ, một thời gian ngắn, do điều kiện làm việc và sinh hoạt căng thẳng, đã sinh bệnh, nhưng được điều trị tốt, với tinh thần quyết tâm, vẫn ra mặt đường. Có chị em, khi còn ở nhà, đáng ra còn đang độ tuổi được người thân nuôi dưỡng chăm sóc, nhưng nay đã dám một mình với cây xà beng khá nặng, trên ta luy cheo leo cao hàng chục mét, vẫn miệt mài xả đất đá.

Ngày mỗi ngày, những đợt thi đua liên tiếp mở ra. Bằng tư duy sáng tạo, bằng sức mạnh của tuổi trẻ, có sự phối hợp chặt chẽ giữa người và máy cùng bộc phá, đỉnh núi Adớt - Atep dần dần được chinh phục. Đường hẹp, cua gấp đã được mở rộng. Mặt đường được rải đá tại chỗ để đón các đoàn xe vươn dài ra phía trước. Đoạn Trao - Bung - Bến Giàng dài trên 50km, qua nhiều sông suối trong đó có 2 sông lớn: sông Bung, sông Cái, 1 số đèo cao khối lượng đất đá lớn, nhưng cũng với tinh thần: “Đâu cần thanh niên có. Việc gì khó có thanh niên”, cả đơn vị đã không kể ngày đêm, tổ chức làm việc tốt, đã hoàn thành, thông xe đúng dịp kỷ niệm ngày sinh lần thứ 83 của Bác Hồ. Ngày khánh thành thông xe đoạn đường được tổ chức tại Trao, có sự chứng kiến của đồng chí đại diện tỉnh Quảng Đà. Hàng trăm xe vận tải đã chuyển bánh an toàn qua đường mới mang hàng kịp cho chiến dịch giải phóng Nông Sơn - Thượng Đức tỉnh Quảng Đà. Các đồng chí lãnh đạo của Đảng: đồng chí Tố Hữu, đồng chí Nguyễn Thọ Chân đi kiểm tra mặt trận Nam Bộ, trên đường trở ra, về tới Bến Giàng đã tỏ lời khen ngợi các chiến sỹ. Câu thơ: “Xuôi dòng sông Cái, ngược dòng sông Bung” của đồng chí Tố Hữu nói lên tình cảm này. Còn bao gương dũng cảm, lao động quên mình nữa, hầu như chẳng khó khăn nào mà không có bàn tay khối óc của chiến sỹ 303 và E98.

Cuộc sống lao động nhọc nhằn, thiếu thốn suốt ngày liên tục trên mặt  đường cũng không làm nao núng tinh thần chiến sỹ bộ đội và TNXP Đội 303. Trong lán trại đơn sơ lợp lá rừng, dưới ngọn đèn dầu leo lét, vẫn vang lên tiếng hát tuổi xuân. Những câu chuyện quê hương đằm thắm, những ngòi bút miệt mài học văn hóa. Họ đã sống đúng với tuổi thanh xuân của đất nước. Những đoạn đường mới mở ngày càng dài ra, những chiến công liên tiếp, và rồi đến một ngày thật vui, thật đáng nhớ, ngày mà E98 cùng Đội 303 cùng đón nhận phần thưởng cao quý nhất của Nhà nước trao tặng cho E98: Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; đó là ngày 3/9/1973, buổi lễ được tổ chức tại thị trấn Trao (Đông Giang).

Phấn khởi với phần thưởng cao quý, E98 và Đội 303 vẫn đi tiếp hăng say lao động bất chấp mọi vất vả, khó khăn để tuyến phía Đông hoàn toàn thông suốt và đảm bảo về kỹ thuật. Ngày ngày, vừa lao động, vừa đảm bảo những chuyến xe hàng hóa, trang bị đầy ắp nối nhau ra chiến trường; tất cả như chung một niềm vui, một niềm tin... Chiến thắngto lớn chắc sẽ đến gần và đúng vậy, những tháng cuối năm 1974, con đường Trường Sơn 80km do E98 và 303 phụ trách đã hoàn thành. Toàn tuyến phía Đông đã vận hành thông suốt. Bây giờ không chỉ những đầu xe vận tải mang ký hiệu T.S (Trường Sơn) mà còn nhiều chủng loại xe khác của các quân binh chủng, các xe Nhà nước lũ lượt kéo vào. Nhìn những cỗ pháo nòng dài ngạo nghễ vút qua, những cỗ xe tăng rầm rập xốc tới, đầy lá nguỵ trang: Các chiến sĩ mới, khỏe, trẻ ngồi trên xe, những ánh mắt tràn đầy niềm tin. Người trên xe cơ giới, người rải dưới mặt đường, tất cả dường như có một cảm nhận chung: Tiền tuyến đang vẫy gọi, tuổi thanh xuân không quản khó khăn. Những câu bông đùa vui vẻ giữa hai lớp lính trẻ trên đỉnh Trường Sơn và 2 nhiệm vụ khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.  Tỉnh nào đây? Hà Tây đây! Đồng hương ơi. Em ơi. Đợi anh nhé. Một không khí náo nức ra trận ghi lại ấn tượng thật khó quên...

Tháng 3/1975 chiến dịch Tây Nguyên đã mở, thắng lợi ròn rã. Tiếp đến chiến dịch Huế - Đà Nẵng, rồi chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh mang toàn thắng về cho toàn dân tộc. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất...

Đội thanh niên xung phong 303 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và trở về quê hương đất lụa Hà Tây.  E98 đã giữ vững truyền thống anh hùng; đội TNXP 303 đã thực hiện đúng lời hứa “Thanh niên Hà Tây đã ra đi là chiến thắng”.

(Trích bút ký của Thiếu tướng Tô Đa Mạn - Nguyên Trung đoàn
Trưởng Trung đoàn 98; Nguyên Phó Tư lệnh Binh đoàn 12
 Nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu Cần)

“Tiếng hát át tiếng bom” niềm tự hào của TNXP thời chống Mỹ

Ngày ấy vào những năm 60-70, nói đến TNXP chống Mỹ ai cũng biết rõ họ không những có thành tích nổi bật trong nhiệm vụ lao động sản xuất, chiến đấu dũng cảm, học tập văn hóa say sưa, rèn luyện nếp sống lành mạnh mà còn có phong trào văn nghệ sôi nổi: “Tiếng hát át tiếng bom”.

Đến bây giờ cũng chưa ai biết được khẩu hiệu: “Tiếng hát át tiếng bom” được sáng tác từ đơn vị nào, và của ai? Nhưng điều chắc chắn đó là của TNXP thời chống Mỹ. Từ khẩu hiệu lịch sử đó, khắp các đơn vị TNXP còn đề ra khẩu hiệu cụ thể để động viên mỗi cán bộ, đội viên TNXP tham gia phong trào “Biết đi là biết múa, biết nói là biết hát, mỗi cán bộ, đội viên TNXP là một diễn viên”.

Hầu khắp các đơn vị TNXP từ đại đội đến đội đều có phong trào văn nghệ rất sôi nổi và xuất hiện nhiều “cây văn nghệ” xuất sắc. Tiếng hát đã vang lên khắp mọi tuyến đường từ thôn xóm đồng bằng đến núi rừng Trường Sơn, tạo nên trong các đơn vị TNXP một cuộc sống vui tươi lành mạnh, lạc quan yêu đời của tuổi trẻ. Tiếng hát thực sự át hẳn tiếng bom đạn rùng rợn của giặc Mỹ, xua tan những gian khổ, khó khăn và căng thẳng mỏi mệt sau những giờ lao động vất vả, chiến đấu ác liệt.

Đặc biệt, trên các trọng điểm địch đánh phá ác liệt suốt đêm ngày, sự động viên an ủi bằng văn nghệ càng quan trọng. Do vậy ngành đường sắt sớm hình thành một đội văn nghệ lưu động, gồm một số nam nữ TNXP xuất sắc được chọn từ nhiều đơn vị, đi biểu diễn phục vụ các trọng điểm chiến đấu ác liệt như Đò Lèn, Hàm Rồng, phà Ghép - Cầu Cấm - Bến Thủy... Những buổi biểu diễn phục vụ dã chiến như vậy đã đưa lại kết quả hết sức to lớn, cổ vũ động viên cả TNXP, cả cán bộ và công nhân ngành GTVT hăng say lao động, chiến đấu, học tập.

Để phục vụ toàn ngành, Bộ GTVT và Đoàn Thanh niên Giao thông vận tải Trung ương đã chính thức thành lập Đội văn công chuyên nghiệp “Tiếng hát át tiếng bom” trực thuộc Bộ GTVT đi phục vụ khắp các đơn vị TNXP trong toàn ngành.

Trong hơn mười năm hoạt động, lúc đầu chỉ có ca hát sau được bổ sung cán bộ, đội viên và có thêm các hoạt động múa, kịch, nhạc, ảo thuật, được trang bị thêm các nhạc cụ, y phục... Tuy nhiên về chế độ chính sách thì vẫn hưởng chế độ cung cấp chung như cán bộ, đội viên TNXP ở các đơn vị.

Do tinh thần hăng hái xung phong, nhiệt tình phục vụ, họ đã vượt qua mọi gian khổ, lội suối, trèo đèo, hành quân hàng vạn cây số, lăn lộn trên khắp mọi nẻo đường mọi trọng điểm, đem lời hát tiếng ca, khúc nhạc và các trò ảo thuật sinh động đến phục vụ TNXP.

Những ai đã thưởng thức một lần đội văn công “Tiếng hát át tiếng bom” biểu diễn đều không quên được tiếng hát đơn ca nam của Ngọc Tiến, đơn ca nữ của cô Quý, tiếng sáo trúc của anh Thăng Long, trò ảo thuật hấp dẫn tài ba của cô Hòa... Họ đã biểu diễn hàng nghìn lần phục vụ cho hàng chục vạn TN XP, cán bộ, công nhân ngành GTVT và bộ đội Trường Sơn. Họ còn được Bộ GTVT điều về phục vụ các kỳ tổng kết, các đại hội chiến sỹ thanh niên ngành GTVT và đặc biệt được biểu diễn báo cáo với Ban chấp hành Trung ương Đảng và biểu diễn phục vụ nhân dân Thủ đô.

Say sưa luyện tập, nhiệt tình phục vụ, biểu diễn sôi nổi, nội dung thiết thực, khả năng tổng hợp... là bản chất, là đặc điểm nổi bật của đội văn nghệ “Tiếng hát át tiếng bom”. Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đội văn công TNXP cũng giải thể. Một số đội viên được tuyển dụng về phục vụ đúng ngành nghề ở đội văn công các địa phương, một số chuyển ngành nghề đi học và một số trở về địa phương với cuộc sống đời thường. Từ vài năm nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương giải quyết tồn đọng sau chiến tranh. Các hoạt động truyền thống và giải quyết tồn đọng chế độ chính sách đối với TNXP được đặt ra. Anh chị em cán bộ, đội viên trong đội “Tiếng hát át tiếng bom” lại hăng hái xung phong tình nguyện trở lại hoạt động như một đội văn nghệ nghiệp dư. Có chị em ở tận Hải Phòng, Hà Tây (cũ) cũng tình nguyện tham gia, sẵn sàng tập trung đi phục vụ không điều kiện.

TNXP phan 5 anh 5
Tốp ca của Đội văn nghệ “Tiếng hát át tiếng  bom” phục vụ
ngay tại một trọng điểm ở Nghệ An (2/1969) Ảnh: T.L

Họ đã phục vụ các cuộc họp mặt truyền thống hàng năm của cán bộ Đoàn và TN XP ngành GTVT của tỉnh Thái Bình, của tỉnh Hà Tây (cũ), đi vào Quảng Nam, Đà Nẵng, Gia Lai, Kon Tum phục vụ các đơn vị thuộc ngành GTVT và đặc biệt phục vụ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ngành GTVT, phục vụ yêu cầu của Công đoàn ngành GTVT và phục vụ Hội nghị tổng kết Nghị định 36 của thành phố Hà Nội...

Mặc dù tuổi đã cao, hầu hết đã nghỉ hưu, đã thành ông, thành bà, đời sống vật chất của một số anh chị em vẫn hết sức khó khăn, họ xung phong tình nguyện đi phục vụ không điều kiện, thường phải tự túc ăn ở, đi lại kể cả nhạc cụ của nhiều cá nhân, trừ một vài thứ đắt tiền do Bộ GTVT tài trợ.

Qua nhiều cuộc biểu diễn phục vụ, với bản chất tốt đẹp, truyền thống của đội văn nghệ tiếng hát át tiếng bom năm xưa họ vẫn tiếp tục phát huy.

Họ say sưa nhiệt tình biểu diễn, tình cảm dạt dào, sôi nổi với nhiều tiết  mục, nhạc phẩm, nghệ thuật cũ và mới, với chương trình thiết thực, hấp dẫn thu phục lòng người.

Sau mỗi lần biểu diễn không những khán giả quen thuộc mà nhiều khán giả mới nghe lần đầu đều ngạc nhiên, thán phục. Có lẽ chỉ duy nhất có một đội văn nghệ của TNXP và chỉ có tinh thần TNXP mới có khả năng và có tinh thần xung phong tình nguyện phục vụ vô điều kiện như thế.

Tôi đã gặp nhiều anh chị em thăm hỏi, động viên. Họ đều có chung tâm huyết muốn đem hết nhiệt tình, khả năng còn lại để phục vụ TNXP. Dù khó khăn gian khổ thiếu thốn, cứ mỗi lần được đi phục vụ họ cảm thấy tự hào, vui sướng, như được sống lại những ngày sôi động trong tổ chức TNXP chống Mỹ vẻ vang trước đây. Họ coi đó cũng là hạnh phúc và vinh dự của người cựu TNXP.

Điều mong muốn chính đáng của anh chị em là muốn được sự giúp đỡ thiết thực, trang bị thêm nhạc cụ y phục và được giúp đỡ kinh phí đi lại, chi tiêu trong những đợt đi phục vụ. Đó là yêu cầu thật khiêm tốn và chính đáng của anh chị em.

Nguyễn Văn Đệ

Kim Yến (st)
Còn nữa


 

Con gái không thua kém con trai

Tổ chức được một cuộc hành quân của hơn 7 vạn TNXP với tinh thần khẩn trương, đảm bảo thời gian quy định trên chặng đường dài 400 – 500 cây số, dưới bom đạn đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ, quả là việc làm không đơn giản.

Đây là một hành động anh hùng, một thử thách đầu tiên mà tuổi trẻ “ba sẵn sàng” đã vượt qua được, tuy chỉ là một bước đi trong vạn dặm, nhưng bước đi đó đã ghi sâu vào ký ức của mỗi cuộc đời. Anh chị em thường nói với nhau: Ai chiến thắng được bước đi đầu tiên này, sẽ chiến thắng tất cả.

Cũng như TNXP các thế hệ trước, ai mà biết được mỗi TNXP trong một nhiệm kỳ 3 năm, đã đảm nhận bao nhiêu công việc cụ thể và vượt qua bao nhiêu gian khổ, hy sinh?

phan 6 TNXP  anh 1
Đội trưởng TNXP Nguyễn Hồng Ly - nụ cười sau khi phá
thành công một quả bom nổ chậm Ảnh: T.L

Và cũng có ai ngờ, những cô gái nông thôn tuổi 17-20, vốn được coi là “phái yếu”, chỉ quen cầm cuốc, cầm liềm, cấy lúa, cắt cỏ, chăn trâu; các em học sinh thành thị mới rời ghế nhà trường, chỉ biết cầm bút, hoặc tham gia công việc đơn giản ở gia đình, có khi còn nũng mẹ, tỵ em, đi đêm còn sợ ma, thế mà nay, tất cả mọi công tác cụ thể từ chiến đấu, lao động sản xuất đến xây dựng cuộc sống, họ phải tự mình làm tất cả.

Vào rừng chặt nứa, chặt tre, đẵn gỗ, cũng cưa, đục, cũng trèo lên mái nhà, buộc rui, mè, tự làm lấy lán trại, làm lấy nhà ở, giường nằm v.v...

Ra mặt đường, từ việc nhẹ như đào đất, san lấp hố bom, cắt bổi, lát rong đanh chống lầy... đến công việc nặng như phá đá, nổ mìn, bạt ta luy... treo mình trên dốc núi cao, ngâm mình dưới dòng suối... tất tật, con trai, con gái đều phải làm như nhau; không thể phân chia việc này của con trai, việc kia của con gái... Và trong thực tế sức lực con gái, khả năng lao động, chịu đựng gian khổ, khó khăn con gái còn khá hơn con trai, vì một lẽ đơn giản con trai loại A1, A2, A3, B1 đều ưu tiên đi bộ đội hết rồi.

... Có đơn vị như Đội TN XP 75 trên đường 12 Quảng Bình, một số chị em có sáng kiến vào rừng lấy củi, gánh về xuôi bán lấy tiền, ra chợ mua lưỡi cưa, mua dao, mua đục, cuốc xẻng về làm.

Đường 20 mệnh danh là đường Quyết thắng, đây là con đường đầy gian lao, thử thách, ác liệt. Ta quyết tâm mở đường, Mỹ quyết tâm đánh phá ngăn chặn. Một cuộc đọ sức ác liệt và cuộc chiến đấu diễn ra ở từng trọng điểm, từng tấc đất, quãng đường.

Một con đường dài 124 cây số, mà phải xuyên qua 43 cây số đá vôi, đá tai mèo. Đường đi vòng vèo gấp khúc, bên núi, bên khe, vực sâu thăm thẳm, phải qua 500 cửa vọng, 970 cua, có cua dài trên 5 cây số, gấp khúc chữ chi, hình thành 2 chữ A mẹ và A con.

Công việc lao động phá đá, mở đường đã gian khổ khó khăn, thời tiết ở núi rừng Trường Sơn lại vô cùng khắc nghiệt, mùa mưa lũ thì mưa suốt mấy tháng liền, mùa nắng thì nóng như lửa đốt, gió Lào phần phật,... Nhưng gian khổ, khó khăn ác liệt vẫn không lay chuyển được quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ của thanh niên ta.

Lực lượng TNXP làm nhiệm vụ mở đường và đảm bảo giao thông trên tuyến đường Quyết thắng lịch sử này là Đội TNXP 25, Đội TNXP 23 và sau được tăng cường thêm Đội TNXP 81... gồm con em các tỉnh: Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Hà Tây (cũ), Thái Bình... mà phần đông lại là con gái. Trên 2.000 cán bộ, đội viên TNXP... đa số là nữ, đã dũng cảm, không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, ai ai cũng hăm hở muốn được giao nhiệm vụ ở nơi địch đánh phá ác liệt nhất.

C5 hầu hết là nữ, được giao nhiệm vụ trấn giữ trọng điểm quan trọng nhất, địch đánh phá ác liệt nhất là cua chữ A. Địch đánh phá suốt cả đêm và ngày, có ngày chúng đánh liên tục 20 trận, kể cả máy bay rải thảm B52. Ban đêm chúng thả pháo sáng khống chế người và xe ta qua lại. Một số cán bộ, đội viên đã hy sinh hoặc bị thương... Sợ C5 chịu đựng quá sức, Ban chỉ huy đội TNXP quyết định thay thế. C5 rút ra khỏi trọng điểm. Được tin, toàn thể cán bộ, đội viên C5 làm đơn tình nguyện ở lại. Có người cắn ngón tay lấy máu ký vào đơn thề “quyết tử cho cua chữ A quyết thắng”, không một ai chịu rời vị trí.

Sau một năm chiến đấu, C5 đã nổi lên thành ngọn cờ đầu của toàn tuyến đường Quyết Thắng... Họ vinh dự được nhận lá cờ luân lưu của Ban chấp hành TW Đảng. Họ luôn luôn giữ vững lá cờ đầu toàn diện trong lao động sản xuất, chiến đấu, học tập và xây dựng nếp sống quân sự hóa của cả Binh trạm 14 thuộc Đoàn 559 và của tất cả lực lượng TNXP hoạt động trên tuyến đường 20. C5 đã được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.

... Thành tích của C5 trở thành truyền thống của toàn đội TNXP trên tuyến đường Quyết thắng. Ngày 7/6/1972 Quốc hội và Chính phủ tuyên dương Đội TNXP 25 trên đường Quyết thắng danh hiệu Anh hùng. Đây là vinh dự to lớn không riêng đối với cán bộ, đội viên TNXP Đội 25, mà là vinh dự chung của lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước toàn miền Bắc. Cả ba nhiệm kỳ với trên 13.800 TNXP của hàng trăm đội TNXP chống Mỹ cứu nước, chỉ có một Đội TNXP 25 với đại đa số là đội viên nữ là được phong tặng danh hiệu Anh hùng vẻ vang. Điều đó khẳng định công lao thành tích của con em các tỉnh hoạt động trên Đường 20 lịch sử.

Tuy nhiên ở nhiều đội TNXP của các địa phương khác, vai trò xung kích dẫn đầu của nữ TNXP cũng rất nổi bật. Không phải chỉ ở hai lĩnh vực sản xuất, chiến đấu mà trong học tập, rèn luyện, xây dựng nếp sống văn hóa, nữ TNXP thời kỳ chống Mỹ cũng xuất hiện nhiều tập thể và cá nhân rất tiêu biểu.

... Chúng ta cứ nghĩ rằng, những cô gái mười tám, đôi mươi, chưa bao giờ biết cầm đục, cầm tràng, cầm rìu, cầm búa... nhưng thực tế họ đã vào rừng chặt gỗ, cưa xẻ, đục đẽo, sản xuất được 8 xe cải tiến, tăng năng suất từ 20% đến 193%, trở thành lá cờ đầu của C112 (thuộc Công trường núi Thành).

Một hình ảnh tiêu biểu khác là tại A5 và A7 của C107 thuộc công trường Ba Gia, cô Lực A trưởng A5, người yêu của anh Bảo, A trưởng A7 cùng nhập ngũ một ngày, cùng hoạt động trong một đơn vị. Cả hai người cùng quyết tâm phấn đấu; thi đua với nhau và trở thành 2 A đạt năng suất cao nhất của toàn đội, thường xuyên đạt năng suất 180-190%.

Những đội viên TNXP gái của Thủ đô Hà Nội, mới rời ghế nhà trường, quen sống trong gia đình thành phố với nhiều điều kiện thuận lợi, nay đã tình nguyện hăng hái xin gia nhập Đội TNXP 51 của Thủ đô. Đội có trên 400 nam nữ, trong đó nữ chiếm 72%.

Riêng Đại đội 512 toàn nữ được phân công hoạt động trên địa bàn rộng với nhiều trọng điểm địch đánh phá ác liệt của Thủ đô. Đại đội vừa san lấp hố bom, đảm bảo mạch máu giao thông luôn thông suốt, vừa vận chuyển hàng hóa vừa làm nhiệm vụ ứng cứu các trọng điểm địch đánh phá ác liệt. Hai bến phà qua sông Hồng, sông Đuống, ga xe lửa Yên Viên, ga xe lửa Văn Điển, đường 6 đi Hòa Bình là địa bàn thường xuyên Đại đội có mặt.

Tháng 12/1967, đơn vị đang đóng quân ở ga Văn Điển thì được lệnh cấp tốc về ứng cứu, giải phóng nhanh hàng hóa trên bãi sông Hồng. Mặc dù ban đêm, trời tối như mực, giá rét cắt ruột, nhiệt độ xuống 100C nhưng cán bộ, đội viên phải ngâm mình dưới nước suốt đêm để cứu vớt 23m3 gỗ, các bè tre nứa và gạo để tránh bom đạn địch.

Trong trận đánh ngày 19/5/1967, một đơn vị pháo cao xạ bảo vệ Thủ đô bị trúng bom, toàn đại đội đã lao vào cứu chữa, kẻ vác đạn, người cứu thương ngay tại trận địa mà không hề nao núng. Đội viên Nguyễn Thị Vầng, tuy vóc người nhỏ bé nhưng tinh thần rất đáng khâm phục, chị đã vác mỗi lần hai hòm đạn 57 ly.

Ở đường 12A trên đất Quảng Bình, Đại đội trưởng kiêm Bí thư Chi bộ Nguyễn Thị Thành C759 anh hùng chỉ huy đơn vị chiến đấu với địch hàng trăm trận. Nhiều lần để giải phóng xe nhanh, động viên, cổ vũ tinh thần của đơn vị, chị đã đứng trên quả bom nổ chậm để chỉ huy đơn vị. Hành động anh hùng của chị đã làm yên lòng đồng đội, động viên cổ vũ mọi người không sợ hy sinh, quyết tâm làm nhiệm vụ sửa đường.

Lê Thị Nguyệt - Chính trị viên phó Đại đội Đội TNXP 23 được biệt phái làm công tác vận tải phục vụ chiến đấu của chiến trường X thuộc Đoàn 559 trên đỉnh Trường Sơn. Được phân công phụ trách một cung đường rừng dài 20 cây số, là đoạn đường hiểm trở với nhiều đèo dốc, đá tai mèo, lúc lên dốc đá dựng đứng, lúc tụt xuống vực sâu thăm thẳm, phải dắt tay nhau, dìu nhau mới trèo lên, tụt xuống được, có những đoạn đường phải lách qua bụi rậm, đi lại vừa chậm, vừa mệt mỏi, không đảm bảo định mức trên giao. Anh chị em trong đại đội thấy vậy thiếu phấn khởi, tư tưởng diễn biến không thuận lợi. Trước tình hình đó đồng chí Nguyệt đã đi sâu giúp đỡ, động viên từng người, dần dần cảm hóa được chị em. Thấy quang gánh lủng củng khó đi, nhất là lúc lên dốc xuống dốc, lúc chui vào bụi rậm, đường hẹp, đồng chí có sáng kiến lấy tải bọc chặt gạo như một khúc gỗ rồi vác lên vai mà đi, mỏi vai này, thay vai khác. Mọi người làm thử thấy dễ đi hơn, không bị vướng, không lủng lẳng, khi lên xuống dốc lại đầm chân. Năng suất trước đây 1 gánh chỉ được 24 cân, nay vác được 38 cân, riêng chị Nguyệt thường xuyên vác 50 cân.

Kinh nghiệm vận chuyển gạo của chị Nguyệt được báo cáo điển hình tại Hội nghị tổng kết TNXP toàn miền Bắc và được phổ biến áp dụng cho các binh trạm.

Đại đội 459 TNXP toàn con gái được chuyển toàn bộ sang quân đội, thành một đại đội công binh thuộc Đoàn 559 ở núi rừng Trường Sơn làm nhiệm vụ vận chuyển súng đạn về tây Quảng Bình. Tuyến đường bị địch đánh phá vô cùng ác liệt, tổn thất khá lớn, có trận hy sinh trên 10 chị em, nhưng tất cả chị em vẫn kiên cường, dũng cảm, bám đường quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Trong một trận đánh, chị em đang vận chuyển súng đạn, bị địch đánh trúng đội hình, nhiều anh chị em đã kịp lao vào hầm, nhưng còn một số chị em lúng túng, không phát hiện được hầm nên một số bị thương vong. Chị Nhãn (quê xã Thanh Tuyền, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) từ trong hầm lao ra cứu đồng đội, dưới làn bom đạn và máy bay địch gầm rú. Chị bình tĩnh đưa hết người này đến người khác vào hầm. Cứu đến người cuối cùng thì chị bị trúng bom. Đồng đội được cứu sống, nhưng chị đã anh dũng hy sinh.

Chị được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Sự xuất hiện các tập thể, cá nhân nữ TNXP tiêu biểu rất phổ biến, ở các đội và các địa phương... Ngay chị em dân tộc ít người, lần đầu tiên được sống, làm việc trong một đơn vị tập thể TNXP cũng thể hiện rõ những ưu điểm và bản chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Họ cố gắng phấn đấu vươn lên, không chịu thua em, kém chị, con gái không chịu thua kém con trai, việc gì con trai làm được con gái cũng làm được.

Các đội viên Đội TNXP 233 thuộc tỉnh Lai Châu - bao gồm đủ 15 dân tộc: Thái, Mèo, Kinh, Hà Nhì, Mán, Lao, Xá, Nhắng, Puốc, Công Xi, La Lủ, Hoa, Dao… Anh chị em dù gặp nhiều khó khăn vì không quen người, quen việc... nhưng mọi người rất tự hào, phấn khởi khi được tham gia phong trào “ba sẵn sàng”. Và chính ở đây, điển hình của đơn vị luôn luôn được “tôn vinh” là ngọn cờ đầu vẫn thuộc về nữ TNXP. Tiểu đội 3 thuộc Đại đội 3 là đơn vị toàn con gái do cô Ha Nu - dân tộc Hà Nhì làm tiểu đội trưởng.

Tiểu đội luôn thể hiện tinh thần yên tâm phấn khởi, từ khi bắt đầu ra quân không có người nghỉ không có lý do, không có ốm vờ, không ai bỏ trốn. Đại đội giao bất cứ việc gì, dù khó khăn, mới mẻ, toàn tiểu đội đều hăng hái thực hiện nghiêm chỉnh.

Những con số tổng kết khái quát sau đây giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá đúng hơn vai trò xuất sắc và đáng khâm phục của nữ TNXP:

+ Trong số trên 13 vạn 8.000 TNXP của cả 3 nhiệm kỳ, có trên 7 vạn là nữ. Nhà nước ta phong tặng 3 anh hùng, có 2 là nữ và truy tặng 10 anh hùng thì cả 10 là nữ TNXP.

+ Bác Hồ đặc biệt gửi thư khen một đại đội TNXP có thành tích xuất sắc toàn diện C333, đơn vị này cũng hầu hết là nữ.

+ Trong 3 tập thể TNXP hy sinh, ở ba trọng điểm địch đánh phá ác liệt nhất của ba tỉnh: Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định công nhận là địa danh lịch sử quốc gia thì hầu hết những liệt sỹ hy sinh đó là nữ TNXP

- 10 cô gái TNXP hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh).

- 13 TNXP hy sinh tại Truông Bồn (Nghệ An) có 11 nữ và 2 nam.

- 13 TNXP hy sinh tại Núi Nhồi (Thanh Hóa) và 4 thanh niên công nhân trong đó có 2 nữ.

Cùng với lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước miền Bắc, ở Liên khu 5 (cũ), TNXP giải phóng miền Nam cũng có vai trò rất quan trọng và đã lập nhiều chiến công xuất sắc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Những tập thể và cá nhân tiêu biểu lập công xuất sắc và hy sinh dũng cảm mà lịch sử và nhân dân đời đời ghi nhớ thuộc về những người con gái miền Nam.

Vì chưa có sự sưu tầm tổng kết đầy đủ nên ở đây chỉ nêu một vài điển hình tiêu biểu của nữ TNXP:

Ở miền Nam, lực lượng TNXP được tổ chức và giao nhiệm vụ phục vụ quân giải phóng chiến đấu như: Đào hầm, xây kho, vận chuyển vũ khí, lương thực, cáng tải chăm sóc thương binh, thu dọn chiến trường và tham gia chiến đấu khi cần thiết.

Tổ chức TN XP được thành lập theo biên chế tiểu đoàn và giao cho các sư đoàn, các quân khu trực tiếp quản lý sử dụng và chăm lo cả về đời sống, trang cấp như quân đội.

Họ thường xuyên bám sát quân đội, phục vụ chiến đấu.

Trận chiến đấu tháng 6/1966 ở mặt trận Lộc Ninh diễn ra vô cùng ác liệt, nhiều chiến sỹ ta hy sinh và bị thương. Đội TNXP phục vụ chiến đấu ở đây vô cùng căm thù giặc Mỹ và thương tiếc đồng đội. Trong tình thế bức bách của cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt, phải nhanh chóng cứu chữa thương binh, Ban chỉ huy Đội TNXP ra lời kêu gọi: Tất cả đảng viên, đoàn viên, đội viên TNXP hãy dũng cảm xông lên cướp chiến trường... Liên tục 4 đợt liền, hết tổ này đến tổ khác xông lên cứu được 13 chiến sỹ bị thương chuyển ra tuyến sau cứu chữa.

Ở một vị trí cách địch 50m, một cô TNXP mật danh Bé Nga thuộc đơn vị TNXP 2136 đã dùng tấm thân nhỏ bé của mình làm điểm tựa che chắn đạn cho thương binh, vừa băng bó, cấp cứu được hàng chục thương binh qua khỏi hiểm nghèo trước lúc chuyển về tuyến sau.

phan 6 TNXP  anh 2
Bà Bùi Thị Mè - Thứ trưởng Bộ Y tế Chính phủ CMLTCHMNVN tặng Bằng khen của TW Đoàn cho các nữ chiến sĩ thi đua TNXP giải phóng miền Nam Ảnh: T.L

Chị Võ Thị Rậm đơn vị TNXP 2311, thương đồng đội mình hy sinh, đã xông lên cõng chiến thương ra ngoài và cuối cùng chị đã bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, chị còn trăng trối: “Hãy bắn thật nhiều Mỹ để trả thù cho đồng bào, đồng chí”.

Hoặc tấm gương tiêu biểu Đoàn Thị Liên, Đội TNXP 112, bình thường là một cô gái dịu dàng, luôn vui cười, ca hát, khi vào việc thì luôn xung phong nhận khó khăn về mình, nhường thuận lợi cho bạn. Trong 18 tháng đi TNXP chị đã phục vụ 12 trận chiến đấu của quân đội giải phóng miền Nam và trận nào cũng diễn ra vô cùng ác liệt.

Nhiệm vụ của chị là vừa cáng tải, vừa chăm sóc thương binh. Với tình thương yêu ruột thịt, chị chăm sóc tận tình như một mẹ hiền, chị nấu cháo, bón từng thìa cho thương binh ăn, rửa mặt, băng bó vết thương như một hộ lý giỏi. Nhiều lần chị ngồi hàng giờ cho thương binh dựa để các anh đỡ phần đau đớn.

Trong một trận đánh ở cầu Lé trên đường 13, Đoàn Thị Liên cùng đồng đội bám sát trận địa, phục vụ chiến đấu. Trận đánh diễn ra ngày càng ác liệt; chị bám sát một mũi tiến quân, xông xáo tiến lên, cứu được hai thương binh đưa về tuyến sau... Chị lại tiếp tục xông lên cứu tiếp... Kẻ địch phản công, Liên tiếp tục cõng thương binh vào hầm trú ẩn. Vì hầm chật Liên nhường cho thương binh ẩn nấp, chị lao ra nấp sau một gò mối, quan sát, chuẩn bị tiến lên làm tiếp nhiệm vụ cứu thương... Bất ngờ Liên bị một mảnh đạn văng trúng người, chị khuỵu xuống. Pháo địch vẫn liên tiếp nổ tới tấp vào trận địa của quân ta, nhiều quả nổ ngay trước cửa hầm có thương binh ẩn nấp.

Liên không yên tâm, cố gượng dậy, lao ngay đến cửa hầm, lấy thân mình che cửa hầm để anh em thương binh ở trong được an toàn. Một quả đạn nổ tiếp ngay trước cửa hầm, Đoàn Thị Liên hy sinh anh dũng. Đồng đội nằm trong hầm đã được cứu sống.

Tấm gương hy sinh anh dũng lấy thân mình che hầm bảo vệ thương binh được coi như một Phan Đình Giót của nữ TNXP ở miền Nam.

Còn một tấm gương tiêu biểu khác xuất hiện trong trận đánh quyết tử của một đơn vị TNXP do chị Nguyễn Thị Hoàng Anh phụ trách.

Ngày 8/2/1970, trong một chuyến đi công tác, đơn vị TNXP của chị (đơn vị 14/8 thuộc liên đội 9 TNXP) bị địch phản kích, chặn đường. Bọn địch bao vây chặt đơn vị, cho máy bay đến quần đảo trên đầu để uy hiếp, kết hợp dùng pháo bắn phá vào đội hình, cho xe tăng xông thẳng vào trận địa hòng bắt sống gọn cả đơn vị. Được lệnh rút về tuyến sau nhưng cả đơn vị của Hoàng Anh xin quyết tâm ở lại chiến đấu cùng đồng đội.

Cuối cùng trong tay chị chỉ còn một quả lựu đạn do một đồng chí bộ đội bị thương trao cho, Hoàng Anh rút chốt, cầm chắc trong tay chờ địch tiến đến... Vì ở giữa bãi trống, không thể ngụy trang, nên bọn địch phát hiện được nơi chị nấp... Sau khi bắt sống được chị Lê Vân - người đồng đội của chị, hai tên Mỹ hầm hầm xông đến định bắt sống chị... Chị cố sức chống lại quyết liệt. Thấy vậy hai tên Mỹ nữa xông vào tiếp sức để quyết bắt sống chị. Chỉ chờ cơ hội ấy, Hoàng Anh bật dậy, giơ tay buông quả lựu đạn... Lựu đạn nổ, cả bốn tên Mỹ chết ngay tại chỗ và chị cũng anh dũng hy sinh.

Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã kịp thời biểu dương hành động anh dũng, bất khuất của chị và truy tặng chị Huân chương Chiến công hạng II.

Ở Liên khu 5 lực lượng TNXP nói chung và nữ TNXP nói riêng cũng thể hiện rõ bản chất anh hùng, thông minh, sáng tạo của người phụ nữ Việt Nam ta.

Cũng giống như lực lượng TNXP giải phóng khác, TNXP Liên khu 5 được thành lập gắn với các đơn vị vũ trang chiến đấu và làm nhiệm vụ chủ yếu là vận tải lương thực, súng đạn, cáng tải, chăm sóc thương binh, phục vụ các chiến dịch.

Tiểu đoàn 2 TNXP hầu hết là con em quê hương Quảng Nam, Quảng Ngãi, tuổi đời còn rất trẻ. Tiểu đoàn có 522 đội viên, nữ chiếm 98% nên thường gọi là “Tiểu đoàn 2 vận tải nữ” do đồng chí Phạm Thị Thao làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Võ Thị Kim Thanh làm chính trị viên trưởng. Đặng Thị Mãi làm chính trị viên phó, Nguyễn Thị Thu làm tham mưu trưởng.

Trong các đợt thi đua, nhiều kiện tướng đã xuất hiện. Chị Nguyễn Thị Huấn, chính trị viên phó C3 đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua 3 năm liền, bình quân một năm chị vận tải được 17 tấn; riêng năm 1971 chị đạt 265 ngày công. Chị đã vận chuyển được 19.590kg, có chuyến chị gùi l05kg, có lần chị gùi cả nòng pháo ĐK 25 cao 2m, kèm theo cả phụ tùng cồng kềnh.

phan 6 TNXP  anh 3
Ảnh: T.L đơn vị bám theo dây lần từng bước vượt

Trần Thị Lâu, chính trị viên phó đại đội, cũng đạt danh hiệu chiến sỹ thi đua bốn năm liền. Năm 1972 chị đạt 274 ngày công, vận chuyển được 19.760kg. Có những lần, vận tải trên những con đường hiểm trở, mưa to, lũ lớn, phải vượt qua sông suối, nước chảy xiết người khó lội qua, chị có sáng kiến kiếm dây rừng buộc chặt hai bên bờ để Gánh đạn cối phục vụ bộ đội chiến đấu qua. Nhưng đến lượt chị, vì nước lũ ngày càng lên cao, dòng nước chảy xiết, nên đến giữa dòng dây bị đứt, chị bị nước lũ cuốn đi... Chị hy sinh để lại sự thương nhớ, cảm phục của đồng đội.

Địch đánh phá ngày càng ác liệt, phương tiện thám thính của chúng ngày càng hiện đại. Tiểu đoàn 2 nữ TNXP phải thường xuyên chiến đấu với cả giặc Mỹ tàn ác với đủ loại bom đạn và “giặc trời” vì mưa nắng, lũ lụt bất thường. Điển hình như trận đánh ở Quế Sơn, 13 nữ chiến sỹ TNXP gùi hàng từ chiến khu về Quế Sơn, khi trở về bị địch phát hiện, chúng sử dụng một lực lượng lớn phục kích bao vây từ 16 giờ chiều đến sáng hôm sau. Các nữ TNXP dũng cảm đánh trả quyết liệt. Trong trận chiến đó có 6 chị hy sinh, 6 chị bị thương, chỉ một người sống sót.

Đây là sự hy sinh rất oanh liệt của một tập thể nữ TNXP.

Để ghi lại sự tích anh hùng và công lao to lớn của Tiểu đoàn 2 vận tải nữ, Mặt trận dân tộc giải phóng đã tặng thưởng tiểu đoàn vận tải Huân chương Giải phóng hạng Ba... Các chị Trần Thị Thao, Nguyễn Thị Huấn, Trần Thị Lâu, cùng nhiều cán bộ, chiến sỹ khác đều được tặng thưởng huân chương các loại.

Bác Hồ đã xúc động, gửi tặng huy hiệu của Người. Cục Hậu cần Quân khu 5 tặng Tiểu đoàn 2 nữ làm công tác vận tải danh hiệu: “Kiện tướng hành lang, gương mẫu đảm đang, chân đồng vai sắt”.

... Thực tế nữ TNXP đã trở thành một lực lượng chủ yếu góp phần quan trọng trong chiến công chung của toàn bộ lực lượng TNXP thời chống Mỹ.

Vì vậy chúng ta cần nhìn nhận đánh giá thật khách quan, đúng mức vai trò lịch sử và sự hy sinh, cống hiến của nữ TNXP thời chống Mỹ. Và chúng ta coi công lao, thành tích của nữ TNXP thời chống Mỹ là một trong những biểu tượng rực rỡ nhất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của phụ nữ Việt Nam ta trong thời kỳ chống Mỹ. Họ đã đóng góp thành tích xứng đáng trong sự nghiệp cách mạng và tô đậm trang sử vẻ vang của dân tộc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ trên mặt trận Giao thông vận tải.

(Theo “Nữ TNXP một thời oanh liệt”)

Thanh niên xung phong làm nghĩa vụ Quốc tế

Từ năm 1972 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia bước vào giai đoạn quyết liệt. Thực hiện thỏa thuận giữa Đảng Lao động Việt Nam và Đảng nhân dân Cách mạng Lào, 2-5-1972 Tổng đội TNXP 572 được thành lập, tăng cường lực lượng lao động cho Ban 64 thuộc Bộ GTVT đang làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Lào.

Tổng đội TNXP 572 được thành lập với 5 Đội TNXP N269, N261, N255, N257, N253 gồm 24 đại đội với 4.000 cán bộ thanh niên con em nhân dân 3 tỉnh Thanh Hóa, Nam Hà, Vĩnh Phú. Đây là “Lần đầu tiên trong lịch sử con gái Việt Nam xuất dương đi làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Lào”.

Sau những thất bại nặng nề ở chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ âm mưu mở rộng chiến tranh sang cả hai nước Lào và Campuchia.

Ta quyết định giúp bạn Lào mở rộng, nâng cấp tuyến đường chiến lược 64km từ căn cứ địa cách mạng Viêng-xây đến biên giới Việt Nam, đặt tên là 217B. Đây là con đường chiến lược hết sức quan trọng đi qua núi rừng, khe suối hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt.

Sống, lao động, chiến đấu trên đất bạn, mọi khó khăn anh chị em đều phải tự lực tìm cách giải quyết. Càng xa quê hương, Tổ quốc họ càng đoàn kết, thương yêu gắn bó với nhau.

Nét nổi bật của Tổng đội TNXP 572 là toàn tuyến đường do lực lượng TNXP thi công, ngành quản lý sử dụng chỉ làm nhiệm vụ hướng dẫn kỹ thuật, thiết kế công trình và chăm lo đời sống. Suốt thời gian thi công con đường 217B, phong trào thi đua được phát động liên tục và sôi nổi, từng đợt, từng đợt.Nhiều tiểu đội, đại đội, thường xuyên hoàn thành vượt mức kế hoạch, như Đại đội 9 thuộc Đội TNXP 259 thi công một đoạn đường dài 6km, suốt 60 ngày thi đua liên tục, toàn đội hoàn thành trước thời hạn 10 ngày.

Hoàn thành xong con đường dài 64km, theo nguyện vọng của bạn, Tổng đội làm thêm con đường nội thị Viêng-xây dài 10km. Đây là Thủ đô kháng chiến của TƯ Đảng Nhân dân cách mạng Lào và Mặt trận Neo lào Hắc Xạt, sau đó còn làm thêm một số công trình khác như xây dựng trường học, nơi ở, nơi làm việc của cơ quan lãnh đạo TƯ bạn.

Vì bạn, vì mình, vì tình hữu nghị và tình đồng chí, Tổng đội 572 đã phấn đấu không mệt mỏi, xây dựng con đường hữu nghị lịch sử này vừa đẹp, vừa chất lượng cao, như một cán bộ cao cấp của bạn đã nói: “Một ước mơ ngàn đời đã trở thành sự thật”.

Hoàn thành nghĩa vụ 3 năm, gần 300 TNXP được tuyển chọn đi học tại các trường đào tạo. Còn đa số tình nguyện tiếp tục ở lại đất bạn để tham gia xây dựng các tuyến đường giao thông huyết mạch như quốc lộ 6, quốc lộ 1 (đoạn Nậm Nơn, Mường Hiềm), quốc lộ 8…

Xét công lao thành tích to lớn của đơn vị, hai Nhà nước Việt Nam và Lào đã tặng thưởng cho đơn vị 7 Huân chương các loại và hàng trăm Huân, Huy chương khác cho cá nhân có thành tích xuất sắc.

Ngày 24-3-1985 tại Đại hội liên hoan Anh hùng Chiến sĩ thi đua toàn quốc, Quốc hội và Chính phủ đã tuyên dương Danh hiệu Anh hùng Lao động vẻ vang cho Xí nghiệp Xây dựng đường 572.

(Theo “Lịch sử truyền thống TNXP” NXB Giao thông vận tải - 2002)

Thành tích phục vụ chiến đấu và chiến đấu của Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước

… Tính chung cả 3 nhiệm kỳ, lực lượng TNXP đã thành lập 200 đội và đại đội độc lập, gồm trên 14 vạn TNXP (>50% là nữ); Đã làm mới 2.195km đường chiến lược, đường vòng, đường tránh, đảm bảo giao thông trên 3.000 cây số; trấn giữ 2.526 trọng điểm của 53 con đường; tham gia xây dựng 6 sân bay…

* Trong cuộc chiến cam go đó, lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước đã bắn rơi 15 máy bay, bắt sống 13 giặc lái Mỹ và 6 tên biệt kích.

- Thành tích học tập văn hóa: Xóa mù chữ cho 998 thanh niên. Nâng trình độ cấp I từ 50% lên 98%; Nâng trình độ cấp II từ 4% lên 57%; Nâng trình độ cấp III từ 5% lên 37%.

- Xây dựng Đảng: Số đảng viên chiếm tỷ lệ từ 3,1% lúc đầu, sau 3 năm đã đạt 23%.

- Xây dựng Đoàn: Tỷ lệ đoàn viên từ 50,3% lúc đầu, sau 3 năm đạt 99%.

- Cung cấp cho quân đội: 15.722 người.

- Cử đi học: 14.888 người.

- Chuyển vào các cơ quan TƯ: 8.043 người.

* Khen thưởng:

- Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho TNXP các thời kỳ.

- Huân chương Hồ Chí Minh cho TNXP chống Pháp, chống Mỹ.

- Huân chương Độc lập hạng Nhất cho TNXP chống Mỹ nhiệm kỳ I.

- Danh hiệu Anh hùng cho 3 tập thể: Đội TNXP 25 trên Đường 20 Quyết thắng: Đại đội TNXP 759 (Quảng Bình) và đại đội TNXP 551 (Hà Tĩnh).

- Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 27 cá nhân. Trong đó, truy tặng 10 cô gái hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc, 13 TNXP hy sinh ở Truông Bồn và 4 cá nhân khác là Nguyễn Thị Kim Huế, Đinh Thị Thu Hiệp, Nguyễn Trí Ân và Đoàn Thị Liên (TNXP giải phóng miền Nam).

* Lực lượng TNXP giải phóng miền Nam đã được ủy ban TƯ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng cờ truyền thống thêu 12 chữ vàng: “Phục vụ quên mình, anh dũng xung phong, lập công vẻ vang”. Tổng đội TNXP giải phóng miền Nam còn được thưởng: - 1 Huân chương Thành đồng hạng Nhất; 1 Huân chương Quân công hạng Ba; 3 Huân chương Thành đồng hạng Ba; 18 Huân chương Giải phóng hạng Nhất; 62 Huân chương Giải phóng hạng Hai; 217 Huân chương Giải phóng hạng Ba…

(Theo “Bác Hồ với TNXP” NXB Giao thông Vận tải - 1998)

Ngã ba Cò Nòi và những con người bất tử

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tuy chỉ hoạt động trong vòng 4 năm (1950 – 1954), nhưng lực lượng TNXP đã chứng tỏ vai trò xung kích của mình và đã có những đóng góp to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, đặc biệt là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

phan 6 TNXP  anh 4

Một trong những địa danh gắn liền với trang vàng truyền thống của TNXP thời kỳ chống Pháp là ngã ba Cò Nòi. Đó là một thung lũng hẹp và sâu thuộc xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, nơi tiếp giáp giữa quốc lộ 6 (đoạn từ Hòa Bình đi Sơn La) và đường 13 (đoạn từ Yên Bái sang). Ngã ba Cò Nòi là một điểm nút nằm trên con đường độc đạo đi từ đồng bằng Bắc bộ lên Điện Biên. Mọi vận chuyển, tiếp tế từ miền xuôi phục vụ cho Điện Biên Phủ đều phải qua đây. Chính vì vậy trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Ngã ba Cò Nòi trở thành một trọng điểm ác liệt, địch cho máy bay ném bom bắn phá suốt ngày đêm nhằm ngăn chặn đường vận chuyển của ta tiếp tế quân lương cho bộ đội ở Điện Biên Phủ. Về phía ta cũng bằng mọi giá phải đảm bảo giao thông ở ngã ba quan trọng này được thông suốt để các đoàn xe và các đoàn dân công vận chuyển hàng ra tiền tuyến. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn mà lực lượng TNXP là nòng cốt, phải hoàn thành.

Trong những ngày tháng ác liệt đó, liên tục bám trụ ở ngã ba Cò Nòi có 4 đại đội TNXP là C300, C301, C303 và C403 với tổng số gần 1.000 đội viên. Các chiến sĩ TNXP đã dũng cảm bám đường, kiên quyết không để xe bị tắc.

Cường độ đánh phá của địch ngày càng ác liệt, nhất là từ sau ngày 13-3-1954 khi đợt tiến công thứ nhất vào cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu. Hầu như không có ngày nào, đêm nào, giờ nào mà máy bay địch không ném bom, bắn phá từ ngã ba trở lên. Bom đạn cày nát mặt đường, hố bom chồng chéo lên nhau. Lúc mưa xuống thì mặt đường thành một bãi lầy, TNXP phải chuyển đá, rải cây cho xe qua… Có ngày địch ném xuống cái ngã ba nhỏ hẹp này tới 300 quả bom các loại; Cả khu vực không còn cái gì nguyên vẹn, chỉ là màu đỏ quạch của đất đá liên tục bị cày xới vì bom.

Nhưng tất cả đều không ngăn được quyết tâm của các chiến sĩ TNXP: Không thể để đường bị tắc! Chiến trường Điện Biên Phủ đang kêu gọi; Tất cả cho chiến thắng! Đó là mệnh lệnh, là ý chí không gì lay chuyển nổi của các chiến sĩ TNXP tại đây. Đêm cũng như ngày, họ san lấp mặt đường, phá bom nổ chậm, cứu người, cứu xe… dưới làn bom đạn của giặc. Công việc của họ không chỉ là vất vả mà còn có cả sự hy sinh xương máu. Hàng trăm đội viên TNXP đã anh dũng hy sinh ở ngã ba lịch sử này. Nhưng sự hy sinh ấy đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng lẫy lừng ở Điện Biên Phủ. Cho nên họ là những con người bất tử: Ngã ba Cò Nòi trong mấy chục ngày đêm quyết chiến ấy đã đi vào lịch sử của cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh, lịch sử của lực lượng TNXP anh hùng.

Ngày nay, tại Ngã ba Cò Nòi một khu tưởng niệm liệt sĩ TNXP đã được xây dựng khang trang, gồm nhà tưởng niệm và tượng đài, phù điêu. Đó là một công trình văn hóa, mỹ thuật, kết hợp giữa kiến trúc hiện đại với bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện sự tôn nghiêm, hoành tráng với sự tôn kính và lòng biết ơn các liệt sĩ TNXP đã hy sinh anh dũng vì Tổ quốc. Nơi đây đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Ngọc Hà

Kim Yến (st)
Còn nữa


 

Nằm trên trục đường 15A (còn gọi là đường Trường Sơn) thuộc địa phận xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, Ngã ba Đồng Lộc là một trong những trọng điểm máy bay Mỹ tập trung bắn phá vô cùng ác liệt nhằm cắt đứt con đường chi viện của ta cho chiến trường phía Nam.

Ngã ba Đồng Lộc có một vị trí hết sức quan trọng. Phía Nam của ngã ba có một con đường độc đạo mà hai bên đều là đồi núi, mỗi khi địch ném bom xuống, dù ở bên nào thì đất đá cũng lở xuống vùi lấp con đường, làm tắc nghẽn giao thông. Đặc biệt mọi con đường từ Bắc vào Nam đều phải vượt qua ngã ba này đi vào phà Long Đại rồi mới đi tiếp. Chính vì vậy mà ngã ba Đồng Lộc được ví như một cái cổ họng, chỉ khi vượt qua được mới có điều kiện tỏa ra nhiều hướng khác nhau để đi tiếp về phía Nam.

TNXP phan 7 anh 1
Đài tưởng niệm Thanh niên xung phong Ngã ba Đồng Lộc

Như vậy, Ngã ba Đồng Lộc là một vị trí vô cùng quan trọng mà bằng mọi cách ta phải đảm bảo giao thông để các đoàn xe đi qua chuyển hàng ra tiền tuyến, không thể để ách tắc lâu được. Còn với địch, chúng hiểu rõ điều đó nên càng ra sức tập trung lực lượng, bom đạn đánh phá suốt ngày đêm vô cùng ác liệt, quyết ngăn chặn các đoàn xe vận chuyển hàng của ta. Chỉ tính 8 tháng trong năm 1968 (tháng 3 đến tháng 10), địch đã trút xuống địa bàn nhỏ hẹp này tới 48.600 quả bom các loại (bình quân mỗi tháng chúng ném xuống Ngã ba Đồng Lộc 6.075 quả bom). Bom đạn của giặc đã làm cho mặt đất bị biến dạng, hố bom chồng lên hố bom, những tưởng không thể tồn tại một sinh vật sống nào ở trọng điểm này!

Thế nhưng… với lực lượng TNXP và nhiều lực lượng chiến đấu khác, ngã ba Đồng Lộc không thể “mất”. Địch phá, ta lại sửa ta đi - Địch quyết phá, ta quyết bảo vệ… Đó là mệnh lệnh từ trái tim những chàng trai cô gái TNXP đầy nhiệt huyết và lòng dũng cảm.

Các anh, các chị đã ngày đêm bám đường, dứt tiếng bom lại lao ra mặt đường san lấp, đào xúc đất đá, giải phóng xe qua… Tất cả vì tiền tuyến miền Nam.

Đặc biệt thời kỳ 1967 – 1968, địch tập trung đánh phá tuyến vận tải Bắc Nam, trong đó có ngã ba Đồng Lộc vô cùng ác liệt, càng đòi hỏi một quyết tâm cao, ý chí ngoan cường của lực lượng TNXP. Cũng vào giai đoạn này, tiểu đội 4 (TNXP) của C552 đã được điều về tăng cường cho trọng điểm Ngã ba Đồng Lộc. Tiểu đội toàn là nữ - những cô gái mười tám, đôi mươi tràn đầy sức trẻ, nhưng cũng thật dũng cảm, gan dạ, không những không sợ gian khổ hy sinh mà còn vô cùng phấn khởi khi được giao nhiệm vụ mới đầy khó khăn.

Suốt hơn một năm trời đương đầu với thử thách nơi trọng điểm ác liệt, tiểu đội 4 đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đảm bảo cho những chuyến hàng ra tiền tuyến. Không những vậy, các chị còn tranh thủ sau những giờ lao động, chiến đấu mệt nhọc, học tập văn hóa và giúp đỡ nhân dân trên địa bàn công việc gia đình, tạo mối quan hệ tốt, được bà con thương yêu đùm bọc… Mặc dù công việc vất vả, mối nguy hiểm luôn rình rập, nhưng các chị vẫn luôn tạo cho mình cuộc sống lạc quan, yêu đời, thể hiện đầy đủ tác phong của thanh niên xung phong.

Nhưng rồi, có ai ngờ cái ngày “định mệnh” của 10 cô gái TNXP tiểu đội 4, C552 lại bất ngờ ập đến, cướp đi sinh mạng những người con ưu tú của quê hương. Hôm ấy là ngày 24/7/1968, khoảng 5 giờ chiều, sau bữa cơm chiều ăn vội, cả tiểu đội được lệnh ra ngay trọng điểm ở khu vực địch vừa ném bom để san lấp hố bom, sửa chữa đường đảm bảo giao thông… Công việc diễn ra ở ngay đoạn đường độc đạo cách Ngã ba Đồng Lộc khoảng 300m về phía Nam. Cùng ra hiện trường còn có tiểu đội 5. Hai tiểu đội đi cách nhau khoảng 500 mét. Đi trước là tiểu đội 4 gồm 10 người.

Khi tiểu đội đang làm việc khẩn trương trong không khí vui vẻ, hăng say thì bỗng có một tốp máy bay phản lực Mỹ bay từ hướng Bắc vào Nam, vượt qua trọng điểm. Chị em trong tiểu đội nhanh chóng tản ra và nằm rạp xuống đường. Chờ hết tiếng máy bay, cả tiểu đội lại bật dậy tiếp tục công việc. Bất ngờ… tốp máy bay phản lực Mỹ quay lại và ném luôn một loạt bom đúng vào đội hình của tiểu đội 4. Tiếng bom nổ chát chúa, khói bom mù mịt trùm lên đội hình 10 cô gái. Thế rồi sau khói bom, nơi ấy chỉ còn lại những hố bom sâu hoắm, không còn thấy một ai. Vậy là cả 10 cô gái TNXP đã anh dũng hy sinh…

Cũng từ đó, Ngã ba Đồng Lộc không chỉ là một trọng điểm ác liệt mà còn là mảnh đất thiêng ghi dấu tội ác dã man của giặc và là một biểu tượng cho ý chí anh hùng của TNXP.

Sau ngày hòa bình, tháng 8-1995 một tượng đài tưởng niệm đã được ngành GTVT xây dựng và khánh thành ngay trên khu đất mười cô gái đã ngã xuống vì nền độc lập tự do của dân tộc. Đặc biệt, mười cô gái đã được Nhà nước ta tặng danh hiệu Anh hùng và cũng ngay trên mảnh đất Đồng Lộc ấy, một nghĩa trang đã được xây dựng để mười nữ anh hùng liệt sĩ yên nghỉ.

Đồng Lộc hôm nay, cùng với những đổi thay không ngừng về mọi mặt, tại ngã ba lịch sử đã mọc lên một khu tưởng niệm bề thế, thể hiện sự đền ơn đáp nghĩa của thanh thiếu niên và đồng bào cả nước đối với các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh tại đây, được xây dựng trên diện tích rộng 15ha, không chỉ là khu tưởng niệm đơn thuần, còn là một địa danh du lịch thu hút đông đảo khách thập phương.

Ngã ba Đồng Lộc thực sự là một địa danh lịch sử gắn liền với truyền thống hào hùng của lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước. Và nhắc tới Ngã ba Đồng Lộc là ta nhớ về sự hy sinh và những chiến công oanh liệt của TNXP trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hào hùng của dân tộc.

Tiến Cao

Nhà truyền thống TNXP toàn quốc

Nhà trưng bày truyền thống TNXP toàn quốc là nơi mà lịch sử TNXP hiện lên tráng liệt nhất, rõ nét nhất, sống động nhất. Gian chính diện có tượng Bác Hồ, đồng chí Trần Phú và cụm tượng bộ đội, TNXP. Những câu khẩu hiệu đã từng là lý tưởng cháy bỏng của thanh niên được dăng đầy cả 3 gian phòng lớn.

110 hiện vật gốc, 12 ảnh gốc và 145 hiện vật được phục chế cho người xem thấy cuộc sống lao động, chiến đấu của TNXP trên mọi ngả đường với tinh thần: “Tất cả cho tiền tuyến”, “Địch phá một, ta làm mười”. Một cuộc sống sôi động, đầy chất thép mà cũng đầy lãng mạn. Hiện vật gồm đồ đạc sinh hoạt, dụng cụ chiến đấu của TNXP: Xe bò, xe cút kít, ống nhòm, xắc cốt, bộ đội với nòng pháo cao xạ, công nhân giao thông với máy xúc, máy ủi, những bức ảnh chụp cảnh trong giờ chiến đấu, cảnh đời thường và cảnh ca hát của TNXP…

Nhà truyền thống TNXP toàn quốc ở Ngã ba Đồng Lộc là một công trình lịch sử – văn hóa và là nơi để mọi người được tìm hiểu và “sống lại” những năm tháng hào hùng, đầy gian khổ hy sinh nhưng cũng vô cùng oanh liệt của lực lượng TNXP trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc.

Nhà bia tưởng niệm TNXP toàn quốc

Tại khu vực Ngã ba Đồng Lộc, từ dưới đường lên khoảng 50m, qua mấy dãy tam cấp dài là nhà bia tưởng niệm TNXP toàn quốc. Nhà bia được Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đầu tư xây dựng năm 1998, khắc tên 1950 anh hùng, liệt sĩ TNXP toàn quốc và các anh hùng liệt sỹ hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc. Mặt chính diện của nhà bia là danh sách các anh hùng liệt sỹ hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc gồm họ tên, quê quán, năm sinh. Hai bên là danh sách các liệt sĩ TNXP hy sinh trên khắp mọi miền Tổ quốc.

Nhà bia tưởng niệm là nơi ghi dấu những trang sử hào hùng và bi tráng của lịch sử, là hiện thân của lực lượng “vai trăm cân, chân ngàn dặm”, không tiếc tuổi xuân và xương máu vì độc lập tự do của dân tộc trên mọi miền đất nước. Tên tuổi của các anh hùng liệt sỹ TNXP sẽ được lưu danh muôn đời, để lớp lớp con cháu ngưỡng vọng, tôn kính, tự hào.

Chuông niệm hồn thiêng từ Mười cô gái Ngã ba Đồng Lộc

Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh dâng quả hồng chung

AH LĐ. GS Vũ Khiêu viết bài minh

Chuông vang lên

Từ trên đỉnh Trường Sơn

Tại ngã ba Đồng Lộc

Đây mười cô thiếu nữ: Vươn cao nghĩa cả non sông

Giữa ngàn vạn anh hùng: Trải rộng hồn thiêng Tổ quốc

Dạt dào sức trẻ, nắng ban mai chói sáng nụ cười

Phơi phới tuổi xanh, gió đồng nội tung bay mái tóc.

Nước nhà khi ấy

Chiến tranh dội xuống cả hai miền

Ác liệt dồn về riêng một góc

Ngã ba lịch sử, suốt ngày đêm dồn dập đạn bom

Nhi nữ kiên cường, trải năm tháng vững vàng gan óc

Đắp đường mở lối, binh lương không ùn lại đằng sau.

Lội suối bắc cầu, xe pháo vẫn ào lên phía trước

Long trời lở đất, cùng quân thù quyết tử đã bao phen

Vì nước quên thân, cả đồng đội hi sinh trong một lúc.

Cái chết trở thành bất tử

Đau thương thành sức mạnh, cờ bay sấm dậy khắp non sông

Đại nghĩa thắng hung tàn, Mỹ cút ngụy nhào trong phút chốc

Đất trời muôn dặm, chiến thắng vinh quang

Nam Bắc một nhà, khải hoàn ca khúc

Chỉ thương ai: ngã trước bình minh

Chẳng còn được: cùng vui hạnh phúc

Tiếng thông reo bát ngát hồn thiêng

Dòng suối chảy nghẹn ngào lệ khóc.

Ngày hôm nay

Một tượng đài cao vút hướng thanh thiên

Mười ngôi mộ sáng trưng như bạch ngọc

Tiếng chuông rung khí phách Trường Sơn

Tiếng chuông dội tinh thần Đồng Lộc

Ngàn thu thức tỉnh đạo làm người

Muôn dặm bừng soi gương vị nước.

Đồng Lộc, ngày 27 tháng 7 năm 2008

Truông Bồn Địa danh lịch sử, sự tích Anh hùng

Mỗi khi nhắc tới những chiến công oanh liệt và những hy sinh to lớn của lực lượng TNXP chống Mỹ cứu nước, không thể quên địa danh Truông Bồn. Đó thực sự là một trọng điểm ác liệt, hứng chịu không biết bao nhiêu bom đạn của không quân Mỹ trong thời kỳ chúng đánh phá miền Bắc nước ta – Nơi từng được gọi là “túi bom”, là “cửa tử”.

Cách thị trấn Đô Lương 15km, nơi giáp ranh hai huyện Nam Đàn và Đô Lương của tỉnh Nghệ An, có một tuyến đường độc đạo chạy từ Bắc vào Nam. Đoạn đường ấy chạy băng qua một cánh đồng ruộng nước rồi vào Truông – Nơi ấy là Truông Bồn, thuộc xã Mỹ Sơn, huyện Đô Lương. Đoạn đường ở Truông Bồn dài khoảng 5km, hai bên hoặc là sườn đồi cả, hoặc một bên là đồi, một bên là ruộng nước. Giống như một khe sâu, con đường chạy hun hút qua Truông, tạo nên một “cửa ải” rất dễ bị san lấp khi bom ném xuống vạt đồi.

TNXP phan 7 anh 4
Đài tưởng niệm các liệt sỹ ở Truông Bồn Ảnh: TL

Con đường “độc đạo” Truông Bồn như một miếng mồi kích thích không quân Mỹ tập trung bắn phá ngày đêm nhằm ngăn chặn, cắt đứt tuyến vận tải của ta ngay từ đất Bắc. Có thể nói, Truông Bồn là một trong những trọng điểm hứng chịu nhiều bom đạn nhất ở khu IV cũ trong thời kỳ giặc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc nước ta. Vì thế, những chiến sĩ TNXP ở Truông Bồn cũng là những người phải chịu đựng vô vàn vất vả, hy sinh. Cuộc chiến đấu ở đây luôn đòi hỏi ở con người lòng dũng cảm, sự gan dạ, trí thông minh, sẵn sàng hy sinh vì một con đường thông xe thông tuyến, đảm bảo cho xe chở hàng ra tiền tuyến không ngày nào ngưng nghỉ.

Tham gia đảm bảo mạch máu giao thông ở đây có nhiều đơn vị khác nhau, trong đó tiểu đội 2 thuộc C317 của Đội TNXP 300 được tăng cường tới trọng điểm Truông Bồn giữa lúc cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở vào giai đoạn vô cùng ác liệt. Chúng đánh phá cả ngày lẫn đêm, ngày mưa cũng như ngày nắng. Mặt đất bị bom đạn cày đi xới lại, mưa xuống là nhão nhoét, bùn lầy ngập sâu mấy chục phân, có chỗ sâu cả mét, điều kiện vô cùng khó khăn. Vì vậy, công việc của các chiến sĩ ở đây cũng vất vả vô cùng. Ngày san lấp hố bom, san đường, xẻ đất…; đêm lại hướng dẫn cho những đoàn xe chở hàng ra trận, có đêm anh chị em phải thức trắng vì đảm bảo cho mấy trăm xe vượt qua trọng điểm; nhiều người phải làm “cọc tiêu” hướng dẫn xe đi (vì không được dùng đèn)… Chưa kể nhiều hôm xe bị bom Mỹ bắn cháy, các chiến sĩ phải xả thân cứu người, cứu hàng, cứu xe, giải phóng đường… Có lẽ ở Truông Bồn không có chỗ cho những ai nản chí và thiếu bản lĩnh! Phẩm chất anh hùng đã được thể hiện từ ngay những công việc gian nan, vất vả, nguy hiểm hàng ngày.

Tiểu đội 2 được mệnh danh là “Tiểu đội thép”, gồm 15 đội viên (13 nữ, 2 nam). Cũng như các chiến sĩ của đơn vị bạn, anh chị em TNXP ở tiểu đội 2, bất chấp gian nan, vất vả, luôn hăng hái lao động, chiến đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Không ai nản lòng, không ai nhụt chí. Anh chị em kiên cường bám trụ, bám đường, “Thà hy sinh chứ không thể để đường bị tắc, xe bị ùn” – Suy nghĩ ấy như một mệnh lệnh của trái tim mỗi người. Tiểu đội 2, vì thế đã lập được nhiều thành tích xuất sắc. Nhiều người đã được kết nạp vào Đảng ngay tại hiện trường. Tiểu đội còn vinh dự được Bác Hồ gửi tặng lẵng hoa và được Trung ương Đoàn tặng cờ Nguyễn Văn Trỗi, cờ thi đua khá nhất toàn đơn vị. Tiểu đội 2 xứng danh được các đơn vị bạn và cấp trên gọi là “tiểu đội thép”.

Ở Truông Bồn, không ai quên cái ngày mà nỗi đau mất mát quá lớn, mãi hằn sâu trong ký ức - ngày 31-10-1968. Hôm đó, từ 4 giờ sáng, anh chị em tiểu đội 2 đã khẩn trương mang cuốc xẻng ra hiện trường để san lấp các hố bom địch vừa ném trong đêm, ngay ở phía Bắc Truông.

Các chiến sĩ làm việc hăng hái, không ngại khó khăn vất vả, quyết thông đường trước lúc trời sáng rõ. 6 giờ, trời đầu đông ở đây vẫn chưa sáng hẳn. Công việc cũng đã cơ bản hoàn thành, chỉ thêm một chút nữa là xong. Nhưng đúng lúc ấy, khoảng 6 giờ 10 phút, một tốp máy bay phản lực Mỹ ào tới, cả tiểu đội vừa kịp chạy tới cửa hầm trú ẩn thì một loạt bom Mỹ rơi đúng đội hình tiểu đội. Truông Bồn lúc ấy mịt mù khói bom.

Và, sau trận bom tàn ác ấy, 13 anh chị em TNXP của tiểu đội 2 đã hy sinh anh dũng (chỉ còn 3 người sống sót, trong đó có tiểu đội trưởng Trần Thị Thông – Chị bị bom vùi lấp, may còn nòng súng lộ ra nên mọi người lao đến kịp thời đào bới và đưa chị đi cấp cứu).

11 chiến sĩ nữ và 2 chiến sĩ nam đã hy sinh ở Truông Bồn. Tên tuổi và hương hồn của họ đã hòa vào mảnh đất Truông Bồn lịch sử, làm nên những huyền thoại bất tử của TNXP anh hùng.

26 năm sau, vào đúng ngày 31-10-1994, công trình tưởng niệm các chiến sĩ hy sinh ở Truông Bồn đã được xây dựng và khánh thành, Truông Bồn được công nhận là địa danh lịch sử. Sự ghi nhận đó nói lên tấm lòng của các thế hệ sau chiến tranh luôn ghi nhớ và biết ơn sự hy sinh cao cả của các anh hùng, liệt sĩ, trong đó có các chiến sĩ TNXP ở Truông Bồn.

Đặc biệt, mới đây nhân kỷ niệm 40 năm sự tích Truông Bồn, Đảng và Nhà nước đã phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho Tiểu đội 2, Đại đội 317 TNXP đã chiến đấu và hy sinh anh dũng ở Truông Bồn. Tập thể 14 chiến sĩ TNXP được phong tặng danh hiệu Anh hùng đợt này có 13 liệt sĩ; người duy nhất may mắn sống sót là chị Trần Thị Thông, Tiểu Đội trưởng Tiểu đội 2. Tất cả 14 người đều nhập ngũ ngày 18-5- 1965. Đó là sự ghi nhận công lao và thành tích xuất sắc của lực lượng TNXP, đặc biệt là của tiểu đội 2 đã chiến đấu ở địa danh lịch sử đầy khốc liệt này trong những năm chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.

Đức Anh

Về 13 liệt sĩ Thanh niên xung phong ở Núi Nhồi

Núi Nhồi thuộc vùng giáp ranh 2 xã Đông Hưng - Đông Văn - huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Những ngày đầu tháng 11/1967, máy bay Mỹ quần đảo, lồng lộn đánh phá điên cuồng, trút không biết bao nhiêu là bom đạn xuống vùng đất này, làm cho ruộng đồng bị cày xới nham nhở, hố bom sâu hoắm, chằng chịt. Vì ở đây có đoạn đường xe lửa đi qua, là chỉ huy sở của Trạm đầu máy xe lửa và trong các hang hẻm của 2 dãy núi Nhồi, núi Nấp là chỗ cất đầu máy, toa xe, ô tô, máy móc và nhiều loại vật tư hàng hóa của ngành giao thông và đường sắt. Nhiệm vụ của TNXP ở đây là bảo vệ, sửa chữa, san lấp hố bom, đắp đường, đảm bảo cho các đoàn tàu luôn thông tuyến để đưa hàng ra trận. Đơn vị TNXP trú quân tại làng Miếu Thôn này hầu hết là nữ, chỉ có một vài nam thanh niên. Các cô đều ở độ tuổi mười tám, đôi mươi. Lúc nào không lao động, công tác ngoài công trường thì ở nhà học tập văn hóa, sinh hoạt văn nghệ, nói cười nhí nhảnh làm cho xóm làng rộn rã, vui tươi, xua tan bớt không khí căng thẳng bộn bề của cuộc sống thời chiến.

Trong công việc họ không nề hà, bất chấp gian khổ hy sinh, với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Tim có thể ngừng đập nhưng đường không thể tắc”.

Thế rồi vào cái đêm 5/11/1967 quái ác ấy, một đoạn đường sắt bị bom Mỹ phá hủy. Lệnh của cấp trên là phải tập trung lực lượng để sửa chữa, đảm bảo thông đường nhanh nhất. Tất cả được huy động ra công trường, vào lúc 7 giờ 30 phút tối đang làm nhiệm vụ san lấp, chuyển đá, kê lót tà vẹt để nối ray thì máy bay Mỹ kéo đến bắn phá. Vì có cảnh giới báo động từ xa nên mọi người kịp phòng tránh an toàn. Sau lệnh báo yên ai nấy lại tiếp tục ra làm, gần 8 giờ 30 phút bọn giặc trời trở lại. Tất cả lại sơ tán và theo kinh nghiệm đều chạy xuống các hố bom cũ để tránh. Nhưng rủi ro thay, trận đánh của chúng ác liệt quá, nhiều bom đạn quá, bom đã rơi trúng nơi trú ẩn của một số chiến sỹ.

Mặc cho máy bay vẫn gầm rú, bắn phá từng đợt tiếp theo nhưng ai nấy đều dồn nén đau thương, căm thù để thi hành nhiệm vụ. 22 người bị thương được sơ cứu và chuyển ngay đi bệnh viện tỉnh, 13 cô gái đã hy sinh. Đồng bào địa phương đã nhanh chóng đem vải, quần áo, hòm ván để lau chùi, khâm liệm và chôn cất các cô trong niềm tiếc thương vô hạn.

Sự hy sinh dũng cảm của các cô gái TNXP ở Núi Nhồi đã tô thắm thêm truyền thống anh hùng của TNXP Việt Nam và góp phần vào những chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Cũng chính vì có những người con anh hùng này mà địa danh núi Nấp, núi Nhồi, nơi 13 cô gái TNXP vì dân tộc hy sinh, đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) cấp bằng di tích lịch sử văn hóa.

Minh Nguyệt

Hang đá thiêng trên Đường 20 - Quyết Thắng

Để thông xe thông đường, tất cả cho tiền tuyến lớn miền Nam, cùng với các lực lượng khác, lực lượng TNXP trên các tuyến đường Trường Sơn trong những năm tháng chiến tranh, đã liên tục bám sát địa bàn, bất chấp bom đạn khốc liệt của máy bay Mỹ, lập nên những kỳ tích. Câu chuyện về “Hang Tám cô” trên Đường 20 - Quyết Thắng là một trong những khúc ca bi tráng của huyền thoại TNXP Việt Nam. Sự hy sinh của 8 TNXP nơi đây không chỉ là nỗi đau khôn cùng mà còn làm nên khí tiết oanh liệt;

Đúng như Nhà văn hoá Vũ Khiêu đã viết:

“Vươn cao muôn trượng bóng anh hùng

Toả sáng mười phương gương dũng kiệt”

Trên các nẻo đường ra trận giữa đại ngàn Trường Sơn những năm đánh Mỹ, Đường 20 - Quyết Thắng có một vị trí đặc biệt quan trọng và cũng là tuyến đường máy bay Mỹ tập trung đánh phá hết sức khốc liệt. Con đường ấy chính là do những TNXP, bộ đội Trường Sơn ở lứa tuổi 20 tạo dựng nên bất chấp bao gian nan và sự ác liệt của bom đạn.

Vì thế mà tên con đường được đặt là “Con đường của tuổi 20”. Và, đường ấy còn có tên Đường Quyết Thắng để biểu thị quyết tâm chiến thắng của bộ đội và TNXP ở đây. Do đó mà sau này con đường có một cái tên ghép thật hay: Đường 20 - Quyết Thắng.

Đường 20 - Quyết Thắng vốn là con đường vượt qua Trường Sơn, nối với đường số 9 tại Lùm Bùm (Lào), vốn đã là trọng điểm bắn phá của không quân Mỹ, nhưng đặc biệt khốc liệt là vào năm 1972.

Tháng 6 năm 1971, 8 thanh niên của huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hóa đã gia nhập lực lượng TNXP và cùng với nhiều TNXP khác, họ được điều vào Quảng Bình theo biên chế của Đội 163 thuộc Ban 67 - Đường 20 Quyết Thắng chính là địa bàn hoạt động của họ.

Suốt năm 1972, nhất là trong mùa mưa, địch tập trung đánh phá vô cùng ác liệt, mang tính huỷ diệt nhiều nơi trên tuyến đường chi viện của miền Bắc cho miền Nam.

Đường 20 - Quyết Thắng trở thành một cửa khẩu huyết tử, một trọng điểm không lúc nào ngớt tiếng bom với đủ loại vũ khí tối tân nhất của địch. TNXP và bộ đội ở đây phải chịu đựng và vượt qua rất nhiều hy sinh để đảm bảo con đường được thông suốt. Tinh thần dũng cảm cùng những nỗ lực tuyệt vời, đức hy sinh vô bờ bến của lực lượng TNXP dọc cung đường đã tạo nên kỳ tích, làm nên bao huyền thoại của sự hy sinh và chiến thắng.

Trong vô vàn sự ác liệt của chiến tranh, sự hy sinh của những con người ấy - sự hy sinh của 8 TNXP ngày 14 - 11 - 1972 trong hang núi đã để lại những nỗi niềm xúc động đẫm nước mắt cho người đời.

Hôm ấy, buổi chiều, tại km16 của đường 20, máy bay B52 Mỹ rải bom liên hồi, cả không gian như bị nổ tung, vỡ vụn. Con đường bị cày nát, núi rừng chao đảo, khói lửa mịt mù… 8 TNXP tránh bom trong một hang núi, chờ hết từng loạt bom là ra san lấp mặt đường như bao lần khác. Nhưng, trận bom tàn ác quá - Một hòn đá tảng nặng hàng tấn đã rơi từ đỉnh núi xuống bịt kín cửa hang, chôn sống 8 TNXP trong đó.

Suốt hàng chục ngày đồng đội tìm cách cứu, nhưng không có cách nào phá vỡ được khối đá khổng lồ ấy. Tiếng kêu cứu của anh em trong hang cứ lịm dần, thưa dần để rồi tới ngày 23 - 11 - 1972 (ngày thứ 9) thì người ta không còn nghe thấy gì nữa - Có lẽ đó là lúc họ đã hy sinh tất cả!

8 TNXP nằm trong đó đúng 25 năm - Mãi tới tháng 3 - 1996, một Trung đội Công binh phải dùng 80kg thuốc nổ phá đá và đào bới gần 60 ngày đêm mới tìm được tám bộ hài cốt trong hang! Các anh, chị em nằm đó, trải bao năm tháng chiến tranh, rồi những năm tháng đất nước hoà bình, không một lời ca thán, không một chút riêng tư… xúc động đến tận đáy lòng của bao thế hệ người đang sống.

Những người trực tiếp phá cửa hang tìm hài cốt đã không ai cầm được nước mắt khi phát hiện trong hang có hai cụm xương - Một cụm gần cửa hang (được xác định là hài cốt của anh Hoàng Văn Vụ) có xương cánh tay ở tư thế vươn tới cửa hang… Cụm thứ hai ở phía trong có 7 bộ xương của 7 TNXP còn lại - Qua tư thế phát hiện được, người ta cho rằng cả 7 con người đã cùng ôm lấy nhau trước khi đón nhận cái chết. Cũng vì vậy mà huyền tích “Hang tám TNXP” ra đời. Và, người đời có khi còn gọi là “Hang Tám cô” bởi tính linh thiêng của sự tích, của địa danh nơi các anh chị đã hy sinh (Chứ thực ra là có 4 nữ và 4 nam).

Từ mấy chục năm nay, dù là bộ đội, TNXP hay nhân dân, đơn vị nào, cá nhân nào khi có dịp đi qua đây, đều không quên thắp nén hương thơm tưởng niệm 8 TNXP và các liệt sĩ khác nữa đã hy sinh tại nơi này, mặc dù hài cốt của họ đã được đưa về mai táng tại nghĩa trang liệt sĩ Thọ Lộc (Bố Trạch - Quảng Bình).

Hang đá nơi 8 TNXP hy sinh đã được tôn tạo thành một di tích lịch sử - Một đền thờ nghiêm trang cũng được lập lên tại đó, không lúc nào hết khói hương. Sự hy sinh bi tráng của họ đã góp phần làm nên “huyền thoại” của TNXP anh hùng.

Nhật Minh

Thanh niên xung phong trên tuyến đường 1C huyền thoại

Năm 1966, để vận chuyển vũ khí từ miền Bắc chi viện theo đường Hồ Chí Minh trên bộ - lúc này đã đến miền Đông Nam Bộ - thông suốt đến tận mũi Cà Mau, tuyến đường 1C ra đời. Địch tập trung mọi hỏa lực, mọi lực lượng đánh phá vô cùng ác liệt tuyến đường này. Nhưng chúng không thể cắt đứt sự chi viện của ta cho căn cứ địa U Minh và cả vùng miền Tây Nam Bộ. Chiến công đó có đóng góp to lớn của lực lượng TNXP anh dũng, ngoan cường làm nên bao “huyền thoại”.

Hưởng ứng phong trào “5 xung phong” do Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng miền Nam phát động, ngày 26-3-1967, Đội Thanh niên xung phong Hòn Đất làm lễ xuất quân, đánh dấu sự ra đời của Liên đội thanh niên xung phong Giải phóng thuộc 6 tỉnh miền Tây Nam Bộ. Sau Hòn Đất, các Đội Nguyễn Viết Khái II , Đội Mai Thanh Thế, Nguyễn Viết Khái III , Tây Đô cũng được thành lập và cấp tốc lên đường làm nhiệm vụ vận chuyển hàng chiến lược trên tuyến đường 1C, con đường dài hàng trăm cây số, không dân cư, toàn đồng hoang, rừng vắng, bị chia cắt nhiều tuyến do đồn bốt của địch.

Chúng đổ quân đánh phá hành lang vận chuyển trên tuyến đường này, có tháng chúng đổ quân đánh suốt 30 ngày, có ngày máy bay địch bắn phá tới 15-17 lần. Các tuyến đường bộ, đường sông không có ngày nào không có tàu hoặc bộ binh địch càn quét.

Vậy mà, những cô gái, chàng trai TNXP ở đây đã dũng cảm chiến đấu, lao động, bất chấp gian khổ, hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Đội viên thanh niên xung phong hầu hết tuổi đời từ 15-20, trong đó 3/4 là nữ, từ các tỉnh đồng bằng tới, chưa quen cuộc sống khắc nghiệt của núi rừng, mùa mưa ẩm ướt, muỗi, đỉa, vắt... Có đợt các đơn vị đóng quân xung quanh núi Cô Tô, 100% quân số bị sốt rét, không có thuốc điều trị, nhiều đội viên hy sinh...

Mùa mưa, nơi đóng quân nước ngập ngang lưng, không một gò khô, suốt ngày phải ngâm mình dưới nước. Mùa khô, địch tổ chức đốt rừng, làm lộ tuyến đường vận chuyển và nơi đóng quân của đơn vị, rồi chúng bắn phá, ném bom ác liệt.

Địch phong tỏa gắt gao, nhiều đợt hết gạo, đội viên phải ăn cháo, ăn rau bông súng, môn nước, củ nèo thay cơm. Có đợt các đơn vị đóng quân ở Cô Tô 27 ngày liền không có gạo.

Gian khổ, ác liệt như vậy nhưng tuyến đường vận chuyển do đơn vị phụ trách không một ngày ngừng hoạt động.

Cùng với nhiệm vụ vận chuyển hàng, toàn Liên đội đã phối hợp chiến đấu anh dũng, diệt hàng ngàn tên địch, bắn rơi hàng chục máy bay. Riêng Liên đội trực tiếp chiến đấu 45 trận, loại khỏi vòng chiến đấu trên 200 tên địch, bắn rơi 4 máy bay, bắn bị thương 3 chiếc khác.

Trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ và vô cùng khốc liệt trên tuyến đường 1C huyền thoại đã xuất hiện biết bao tấm gương sáng chói chủ nghĩa anh hùng và lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Nữ đội viên Hồng Láng bị địch bắt đã hy sinh anh dũng để bảo vệ khí tiết, an toàn cho đơn vị.

Trần Thị Kim Thoa, 15 tuổi, ở đội Mai Thanh Thế, trong lúc đơn vị đi làm nhiệm vụ, một mình ở nhà, trực thăng địch đổ quân đánh chiếm doanh trại, đã dũng cảm, mưu trí đánh địch, đẩy lùi cả đại đội địch do 6 trực thăng đổ quân xuống.

Lê Văn Dè một mình chiến đấu với một tiểu đoàn địch trên bờ xáng trống trải, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của địch, diệt 17 tên, trong đó có 2 lính Mỹ.

Tư Hùng, chỉ huy một tiểu đội thanh niên xung phong chiến đấu suốt 4 tiếng đồng hồ với 10 máy bay địch bằng súng bộ binh, bắn rơi một chiếc, bắn bị thương một chiếc khác. Một trung đội của Đội Nguyễn Viết Khái III liên tục 14 ngày đêm truy lùng, đánh nhau với một trung đoàn địch, đẩy chúng ra khỏi hành lang, đảm bảo an toàn cho tuyến đường vận tải.

Một tiểu đội của Đội Nguyễn Viết Khái III suốt 4 tháng nằm rừng, bám địch bảo vệ an toàn cho đoàn vận chuyển hàng về căn cứ...

Chị Tuyết Thu - Một người phụ nữ chân chất, hiền hậu, vậy mà trong những năm tháng ác liệt ấy trên tuyến đường 1C, chị đã cùng đồng đội lập nên nhiều chiến công oanh liệt. Chị kể rằng: Năm 1970, đội TNXP Hòn Đất được phân công trở về Ba Hòn để tiếp nhận hàng từ Mo So (Campuchia) về. Vác nặng, sức yếu lại phải bước lên dốc cao ngày này qua ngày khác, hai đầu gối không co lại được. Vậy mà chị và nhiều chị em khác vẫn hăng hái mang vác suốt ngày đêm, hết vũ khí đến gạo...

Chị còn kể: “Ngày 5-1-1971, địch đổ quân đánh vô Ba Hòn. Mặc địch đánh, tụi tôi vẫn cứ đi. Nắm quy luật cứ bắn xong một loạt pháo là chúng ngưng 5 phút, chúng tôi tranh thủ lúc đó đi hoặc đưa hàng vô hang. Khi tới Mo So thì trời đã sắp sáng, chúng tôi không dám đi thẳng mà phải sắp hàng một, chỉ cần rục rịch một chút là trên núi địch bắn xả xuống ngay. Lúc ấy, ngày nào chúng tôi cũng nghĩ có thể là hôm nay mình chết hoặc bị thương. Cứ thế, ngày tiếp ngày, chúng tôi không còn thấy sợ nữa”.

Có lần, giặc bố trí quân cùng khắp, trong khi các chiến sĩ sư đoàn 21 bị bao vây mà ta không còn đạn để chiến đấu. Chị Tuyết Thu và anh Sáu Chà chờ đêm tối, bò ra khỏi hang Hòn ở phía mé biển, khéo léo kéo chiếc vỏ lãi được giấu sẵn từ trước, đưa xuống biển làm phương tiện vận chuyển công khai. Chất xong vũ khí đã được gói kỹ, chị cho chất đầy dưa hấu lên trên ghe, trên cắm cờ ba sọc. Vậy là 2 chiếc ghe chở đầy vũ khí ung dung lướt qua những tàu tuần tra của địch về Hòn Đất. Bằng sự mạo hiểm và sáng tạo ấy, chị Tuyết Thu và đồng đội đã đưa được về Hòn Đất 3.500 kg vũ khí an toàn. Chị Tuyết Thu nói: “Mỗi chuyến đi năm ấy, tôi sẵn sàng đối mặt với cái chết. Tôi để sẵn khẩu AK dưới lớp lưới, phòng đụng giặc là quyết tử!. TNXP ở đường 1C là vậy đó - đụng giặc là sẵn sàng quyết tử với chúng để bảo vệ khí tiết, bảo vệ đồng đội”. Không chỉ là kiện tướng mang vác, vận chuyển hàng và nữ cứu thương tận tụy, chị Tuyết Thu còn làm nên chiến công lẫy lừng bắn cháy xe tăng. Ngày 7-4-1971, xe tăng địch càn vào Hòn. Đại đội TNXP Hòn Đất toàn nữ, vừa lo chiến đấu, vừa bảo vệ thương binh, cùng Đoàn 60 rút vào hang phòng thủ. Địch tràn vào miệng hang, đang điều khiển khẩu DKZ bắn địch, anh Đúng trúng đạn hy sinh. Lập tức, chị Tuyết Thu lao lên, thay thế vị trí của anh. Chỉ một quả DK75, chị đã phá hủy chiếc xe tăng đi đầu, đẩy lùi trận càn của địch.

Chiến đấu bảo vệ đơn vị và kho hàng còn có những cô gái ngỡ như rất bé nhỏ, nhút nhát; Như chị Thu Nguyệt - đội TNXP Mai Thanh Thế. Khi mới đến chiến trường, nhìn dáng vẻ yểu điệu, đài các của Nguyệt, nhiều người thầm nghĩ chị không trụ nổi ở đây lâu. Có lần phát hiện đỉa cắn vào bắp chân, Nguyệt la hoảng, vội cởi quần quăng đi. Khi cơn sợ đã qua, chị đỏ bừng mặt xấu hổ. Đồng đội thấy chiếc quần của chị vắt vẻo trên cành cây không nhịn được trận cười. May mà lúc đó đơn vị toàn là nữ.

Người con gái nhút nhát ấy không ai ngờ đã cùng chị Ngọc Đẹp dũng cảm dập pháo màu, cứu sống đồng đội. Hôm ấy, các chị vừa xây xong hầm nổi, chưa kịp ngụy trang, đã bị máy bay địch phát hiện, quăng trái pháo màu vào ngay miệng hầm. Nhiều TNXP được ém phía trong, còn Thu Nguyệt và Ngọc Đẹp ở bên ngoài. Kinh nghiệm chiến trường khiến các chị biết đó là ám hiệu máy bay địch đến ném bom, bắn pháo hoặc đổ quân. Sợ lộ mục tiêu, trong tích tắc hai chị nhào ra ôm trái pháo màu rồi cởi áo ém lại, hốt bùn, phân tràm, dùng toàn bộ sức lực ấn sâu xuống sình non. Trái pháo màu hiện đại của địch bị dìm ngộp, không nổ được. Sự dũng cảm của hai chị đã cắt bỏ trận ném bom tọa độ sống của địch, bảo toàn cho đơn vị. Nhưng ảnh hưởng pháo màu khiến hai chị bị tức ngực, mắt bị sưng vù. Các chị không thấy đường, sờ soạng như người mù, ôm mắt vì đau nhức. Nặng nhất là Ngọc Đẹp. Đồng đội đưa chị vào trạm xá điều trị cả tuần lễ. Sau thời gian điều trị, mọi người vui mừng khi thấy mắt các chị hồi phục. Lần đó, Ngọc Đẹp được bình chọn là chiến sĩ thi đua.

Trên tuyến đường 1C còn có những người con gái chân yếu tay mềm bắn hạ được máy bay Mỹ; hay dùng súng cối bắn cháy xe tăng địch như chị Hồ Thanh Hồng, sử dụng được cối 82 và 61 ly. Trong trận bảo vệ kho hàng 500 tấn ở núi Bang Hang chị Thanh Hồng cùng các chị Hai Xuyến, Ba Huệ điều khiển cối 82 ly bắn vào đoàn xe M113 đang càn vào. Từ trên điểm cao, chị Hồng dùng cối 61 ly, lấy khăn rằn lót đế pháo đặt trên đùi bắn thẳng. Khi nòng pháo quá nóng, chị Hồng cởi áo quấn, tiếp tục rót đạn. Chị đã cùng đồng đội chiến đấu quyết liệt đẩy lùi 5 đợt phản kích dữ dội của địch. Cũng từ đó chị có biệt danh là Hồng Cối.

Sự nhanh nhạy, tinh tế của phụ nữ cũng đã góp phần làm nên những chiến công bất ngờ. Nhờ lanh lẹ, tháo vát, chị Kha Thị Xuyên (Tám Xuyên) được bộ đội cử “cắt đường”. Một hôm, bất ngờ nhìn thấy 3 người lạ, chị hốt hoảng chạy thục mạng trở về đơn vị, báo cáo tình hình. Chị được các anh bộ đội trấn an, giao nhiệm vụ quay lại chỗ cũ. Nhưng khi chị quay lại thì 3 người lạ mặt đã bỏ đi. Các anh bộ đội khám xét, phát hiện đó là gián điệp. ít lâu sau, chị Xuyên phát hiện chiếc khăn trắng treo trên đọt tràm chỗ đầu kinh Hãng, tiếp theo đó là đơn vị Mai Thanh Thế bị ném bom; bên đại đội Hòn Đất, anh Hai Thắng bị bắn ngay tại giường ngủ... Xâu chuỗi những sự kiện ấy lại, chị biết đại đội Mai Thanh Thế có gián điệp. Từ đó, chị báo cho đơn vị bắt đầu cảnh giác, hạn chế được rất nhiều tổn thất.

Trở lại với tuyến đường 1C và những TNXP giàu lòng yêu nước nơi đây: Năm 1966, thời kỳ cao trào cách mạng kháng chiến chống Mỹ của miền Tây Nam Bộ, vùng giải phóng mở rộng nối liền 6 tỉnh Khu 9. Cùng lúc đó, đường Hồ Chí Minh trên biển do Đoàn 962 phụ trách bị địch phát hiện, phong tỏa, đánh gắt gao nên gặp nhiều khó khăn.

Phương tiện chiến tranh từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện theo đường mòn Hồ Chí Minh trên bộ đã đến miền Đông Nam Bộ. Muốn vận chuyển lượng phương tiện chiến tranh này đến tận mũi Cà Mau, phải cấp tốc tổ chức lực lượng vận chuyển. Đó là lý do khiến các đội TNXP miền Tây Nam Bộ được thành lập và tuyến đường giao thông vận tải 1C ra đời.

Vào tháng 9-1966, Khu ủy miền Tây Nam Bộ (T3) giao nhiệm vụ cho Khu Đoàn Tây Nam Bộ thành lập ngay lực lượng TNXP, bước đầu ít nhất 500 quân, để tiếp nhận vũ khí chuyển về quân khu, chuẩn bị cho chiến dịch Tết Mậu Thân 1968. Sau đó còn tuyển thêm được hơn 800 quân, đa phần là nữ. Tất cả đều ở lứa tuổi 18-20. Nhiều cô gái mới 14-15 đã khai thêm tuổi để tòng quân, có chị trốn gia đình theo đơn vị. Giã từ quê hương cây lành trái ngọt, giã từ mái trường thân yêu, những người con gái trẻ dấn thân vào chiến trường 1C. Lộ trình của đoàn quân đặc biệt ấy từ lộ Cái Sắn đến kênh Vĩnh Tế, bao gồm vùng Bảy Núi - Ba Hòn. Đôi bàn chân con gái bắt đầu bước đến những địa danh nổi tiếng ác liệt.

Chuẩn bị cho chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, tuyến đường 1C như chuyển mình với nhiệm vụ cấp bách: Đưa vũ khí kịp thời vào chiến trường miền Tây. TNXP ở đây đã vận chuyển an toàn 350 tấn súng đạn, phương tiện chiến đấu của Trung ương Cục chi viện cho Khu 9, triển khai hậu cần đủ cho 6 tỉnh vào chiến dịch Mậu Thân. Trong không khí vui nhộn nhịp đón giao thừa, trên vai những chàng trai, cô gái lúc nào cũng trĩu nặng những gùi hàng tải bộ đường xa.

Tuyến 1C sôi động đêm ngày. Từ Bắc lộ Cái Sắn đến kênh Vĩnh Tế, đêm đêm hàng trăm ghe xuồng xuôi ngược. Tất cả đều tin vào một trận dứt điểm, và các anh, các chị đã sống, chết với niềm tin ấy...

Gian khổ, hiểm nguy vậy mà anh, chị em cứ giành nhau vận chuyển. Vào đợt, họ đi 29 ngày liền trong tháng.

TNXP phan 7 anh 5
Nữ TNXP trên chiến trường miền Tây Nam Bộ cáng chuyển thương binh Ảnh: T.L

Người nào cũng ướt ngoi, bơi mỗi người một xuồng đi đường rừng. Mũi xuồng va chạm vào cây là té xuống nước. Đoàn người đêm đêm cứ nối tiếp, đi hết mùa mưa rồi lại nắng, đi dưới mưa dầm, vai nặng đường trơn, mồ hôi ướt đẫm. Vậy mà có người còn giấu bệnh để được đi công tác. Trên xuồng chở 300 - 400 kg vũ khí, khi kéo, khi đẩy hàng chục kilômét, thân mình, tay chân bị lác, đỉa cắn, cỏ Bắc cắt ngược xuôi thành mủ, sình bám vào châm chích khó chịu, nước uống không có, nói gì đến nước rửa chân. Vậy mà họ vẫn lạc quan yêu đời, làm thơ, ca hát, đùa giỡn, làm rộn ràng, sôi động đoàn vận chuyển vũ khí trong đêm.

Suốt nhiều tháng trời, địch đã dùng mọi biện pháp để ngăn chặn những bàn chân TNXP nối liền mạch tuyến đường 1C. Bộ Chỉ huy Liên quân Việt - Mỹ và vùng 4 chiến thuật biết rõ con đường này là “sinh mệnh” của chiến trường miền Tây, nên đã dốc toàn lực đối phó, với những loại vũ khí mang tính sát thương và hủy diệt cao. Đồng thời, địch huy động hàng sư đoàn với các binh chủng phối thuộc bằng phương tiện hiện đại tràn ngập chiến trường. Chúng quyết hủy diệt con đường 1C bằng mọi giá. Khu lòng chảo tuyến đường Vĩnh Tế - Tám Ngàn - Cái Sắn - Bảy Núi, Ba Hòn, mà trung tâm là những cánh rừng với những địa danh Vĩnh Điều, Tràm Dưỡng, Đồng Cừ, Gộc Xây... đã hứng chịu hàng ngàn tấn bom đạn. Những TNXP dũng cảm nối tiếp nhau bước vào cuộc chiến đấu diễn ra mỗi ngày, đặc biệt ở lòng chảo Gộc Xây và kênh Vĩnh Tế, vượt lên mọi gian khổ hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Suốt gần 10 năm liền sau khi được thành lập, lực lượng TNXP đường 1C đã cùng chính quyền, du kích địa phương liên kết nhau, bám địa bàn, sẵn sàng hy sinh, bền bỉ thực hiện nhiệm vụ vận chuyển hàng chục ngàn tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh, đưa đường cho cán bộ, bộ đội ngược xuôi qua tuyến đường. Họ đã làm nên huyền thoại con đường 1C lịch sử. Con đường của Chủ nghĩa Anh hùng cách mạng, của ý chí bất khuất, ngoan cường của TNXP Việt Nam.

T.H

Kim Yến (st)
Còn nữa

Bài viết khác: