Hệ thống Trợ năng

Chỉ mục bài viết

 

 

Một sáng Tháng Năm

(Nguyễn Thị Minh Châu và Phan Thị Quyên kể)

Bác bỗng hiện ra trước khung cửa, Phan Thị Quyên và tôi chạy ùa tới ôm chầm lấy Bác mừng vui không thốt nên lời.

Chan chứa yêu thương, Bác vuốt tóc chúng tôi và nói:

- Hai cháu có khỏe không?

- Dạ, chúng cháu khỏe lắm!

- Anh chị em cùng ra với các cháu có khỏe không?

            Nhớ lời đồng chí cán bộ dặn đừng khóc, chúng tôi cố ngăn nước mắt nhưng không sao ngăn được. Giọng Bác ấm áp làm sao!

            Sung sướng, vui mừng, kính yêu Bác quá! Chúng tôi lau nhanh nước mắt rồi thưa:

- Bác ơi, đồng bào miền Nam nhớ Bác lắm. Biết chúng cháu ra đây ai cũng gửi lời kính chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu để vô Nam cho đồng bào thỏa dạ nhớ mong...

Vừa lúc ấy, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến. Bác vui vẻ bảo:

- Hai cháu chào chú Đồng đi.

Chúng tôi quay lại trân trọng chào Thủ tướng, rồi theo Bác và Thủ tướng vào phòng. Hôm ấy, Bác cho hai chúng tôi ăn cơm với Bác. Quyên đi bên trái. Tôi đi bên phải Bác. Đến trước bình hoa, Bác lấy hai cành hoa cho chúng tôi mỗi đứa một cành. Thật là xúc động!

Ngồi vào bàn ăn, Bác hỏi chúng tôi rất nhiều chuyện về miền Nam. Giọng Bác như dòng nước ngọt quê hương. Chúng tôi lắng nghe như nuốt từng lời. Lời nói của Bác ấm áp và đầy tình cảm thương yêu đồng bào, gần gũi quần chúng, càng làm cho chúng tôi sống những giờ phút bên Bác rất thoải mái, mỗi lời nói của Bác giúp chúng tôi thêm sức mạnh.

Bác hỏi thăm tin tức gia đình Quyên, gia đình tôi, hỏi thăm anh Lê Hồng Tư, Tiểu đội Lê Quang Vịnh, chị Võ Thị Thắng. Bác chú ý nhiều đến phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn và các thành thị ở miền Nam.

Bác múc canh và gắp thức ăn cho chúng tôi. Bữa cơm chúng tôi được cùng ăn với Bác và Thủ tướng giản dị và đầy không khí gia đình thân mật, đầm ấm. Bác quay sang hỏi tôi:

- Mỗi bữa cháu ăn được mấy chén?

- Dạ, thưa Bác, bình thường cháu ăn được hai chén.

Bác cười, chỉ vào cái chén của Bác lớn hơn chén của chúng tôi đang ăn và nói:

- Các cháu là thanh niên phải ăn khỏe để đánh thắng giặc Mỹ chứ!

Bác nói tiếp:

- Chiến sỹ, đồng bào và cán bộ trong đó đánh giặc rất giỏi, nhưng ăn mặc có đủ không?

- Thưa Bác, nhờ bảo đảm được sản xuất tự túc và cải thiện đời sống cho nên ăn mặc cũng đủ, đồng bào ít khi bị đói. Bộ đội vừa đánh giặc vừa tăng gia, sản xuất tự túc được ít nhiều. Những vùng miền Đông, Khu 6, Khu 10 trước kia có lúc đói lắm, bây giờ tình hình đã khá hơn. Từ Trường Sơn đến mũi Cà Mau, cán bộ hay bộ đội đi công tác dọc đường không đói nhờ có khoai, mì trồng khắp nơi, ai dừng chân ở đâu thì trồng ở đó, người đến trước trồng người đến sau ăn. Bác và Thủ tướng cười và khen việc làm đó rất tốt.

Bác hỏi tỉ mỉ về tình hình công tác và học tập của cán bộ, của các cháu gái và các cháu thiếu nhi.

Chúng tôi biết chừng nào thưa Bác chừng ấy. Có những việc chúng tôi chỉ được nghe kể lại, chúng tôi cũng thưa hết với Bác như những đứa con lâu mới được về thăm nhà.

Chúng tôi kể để Bác nghe chuyện chị em phụ nữa đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang và phục vụ chiến đấu. Chị em thanh niên xung phong đã kề vai làm cầu cho bộ đội vượt sông kịp mở trận đánh vào thành Sài Gòn trong đợt Tổng tiến công đầu xuân Mậu Thân 1968. Chúng tôi kể tiếp về phong trào học sinh, sinh viên miền Nam, trong đó có sinh viên Sài Gòn.

Được gần Bác, gần Thủ tướng trong một bầu không khí thân mật, ấm cúng, được nghe những lới nói đầy yêu thương của Bác, chúng tôi cảm thấy như bao nhiêu năm xa cách, hôm nay được trở lại gặp người ông, người cha thân yêu nhất của gia đình. Chưa bao giờ chúng tôi nghĩ mình sẽ có những giờ hạnh phúc như hôm nay. Thủ tướng rất thông cảm với nỗi vui mừng của chúng tôi được gặp Bác nên cứ để chúng tôi thưa chuyện với Bác, chỉ trìu mến nhìn và nghe chúng tôi nói.

Chúng tôi mải thưa chuyện mà quên ăn, Bác phải nhắc:

- Hai cháu ăn đi chứ. - Bác lại gắp thức ăn cho chúng tôi và bảo:

- Cháu Châu còn xanh quá, phải cố gắng ăn cho chóng khỏe.

Trước sự săn sóc ân cần của Bác, tôi không thể không nhớ lại những lúc trong tù, gian khổ đấu tranh với kẻ thù, chúng tôi động viên nhau nhớ hình ảnh Bác để giữ khí tiết. Đồng chí Cao Hoài Đông, khi bị giặc đốt cháy nám cả tay chân vẫn không khai báo. Bản thân tôi, có lần bị quân thù tra tấn tàn ác, tôi tưởng không thể nào sống được, bao đau đớn uất hờn nghẹn dâng tận cổ, giặc cứ mãi khảo tra, đầu óc tôi quay cuồng ê ẩm. Trong giây phút đó, Bác đã xuất hiện trước mắt tôi, Bác vừa rất cương nghị, vừa rất hiền hậu, và như nói với tôi: "Dũng cảm lên con! Các con là những người chiến thắng".

Cho đến khi được thật sự ngồi bên Bác, càng nhìn Bác, chúng tôi càng nhớ đến các đồng chí ở trong Nam luôn luôn hướng về Bác để có thêm sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Bỗng nghe thấy tiếng đáp của Quyên, tôi ngước lên nhìn Bác, nước mắt rưng rưng. Quyên cũng lấy khăn tay lau nước mắt. Chắc Quyên nghĩ nhiều về anh Trỗi. Anh có biết đâu giờ phút này Quyên đang ngồi bên Bác Hồ, người mà anh vô cùng kính yêu. Phút cuối cùng của đời mình, anh đã hô nhiều lần tên Bác.

Những lúc tâm tình với tôi, Quyên nhớ lại rất rõ, nhiều lần kể chuyện cho Quyên nghe, anh Trỗi đã hứa hẹn hoài: "Bao giờ ra được ngoài Bắc, thế nào anh và em cũng tới chỗ Bác ở, chờ trông thấy Bác. Chúng mình ao ước được gặp Bác quá". Anh xót xa: "Do bọn giặc Mỹ và tay sai phá hoại thống nhất nước nhà cho nên đồng bào miền Nam ta chưa được rước Bác vô thăm".

Bữa cơm dù lâu mấy cũng phải xong. Tôi cứ tiếc không còn được ngồi mãi bên Bác. Đang mải nghĩ như vậy, tôi giật mình khi nghe Bác bảo tôi xẻ chiếc bánh ngọt, chia đều mỗi người một phần. Tôi cắt bánh, đặt miếng bánh vào đĩa mời Bác, Bác lại xắn miếng bánh ấy làm hai, Bác chỉ ăn một nửa, còn thì chia thêm cho hai chị em chúng tôi. Tôi nhận thêm miếng bánh Bác cho, bồi hồi ứa nước mắt.

Những lúc Quyên thưa chuyện với Bác, tôi có dịp nhìn Bác thật kỹ, nghe Bác nói thật nhiều.

Nhớ lại những lúc hoạt động trong vùng địch, khi nghe tiếng Bác nói trên đài, đọc lời kêu gọi của Bác, chúng tôi như thấy có ngọn đèn soi sáng bước đường mình đi.

Hôm nay, được ngồi bên Bác, được ngắm vầng trán bao la, đôi mắt sáng ngời, nụ cười hiền hậu, Bác vô cùng cao cả, Bác giản dị và thân thiết vô cùng!

Thời gian trôi đi nhanh quá! Đã đến lúc chúng tôi phải chào Bác để Bác về nghỉ. Như một người ông đối với những đứa cháu nhỏ từ xa về, Bác dắt tay chúng tôi ra cửa. Bác căn dặn thêm chúng tôi phải hết sức khiêm tốn, chú ý giữ gìn sức khỏe, cố gắng công tác và học tập tốt...

(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1975.)

Những nhiềm vinh hạnh (Trần Thị Bưởi kể)

Lớn lên, sống xa Thủ đô, xa Trung ương, chưa được gặp Bác Hồ nhưng Bác vẫn là người ông mà những đứa cháu chúng tôi được nghe kể nhiều nhất, nhiều hơn cả ông nội trong nhà. Lòng kính yêu của chúng tôi đối với Bác dường như không bắt đầu từ một sự tác động nào. Nó là những tình cảm dĩ nhiên mà mỗi đứa bé Việt Nam sinh ra và lớn lên đều có. Bởi vậy được gặp Bác Hồ là một niềm ao ước tha thiết đối với đời tôi. Những năm ấy tôi chỉ thỉnh thoảng được nhìn ảnh Bác, được nghe tiếng Bác nói trên đài....

Sau mùa Xuân năm 1968, bỗng tôi được lệnh trên cử đi công tác nước ngoài. Lần đó tôi được làm đại biểu trong Đoàn Thanh niên giải phóng miền Nam đi dự Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới lần thứ chín ở Xôphia. Chuyến đi này đối với tôi là một bài học lớn: Được đi ra nước ngoài, tiếp xúc với bạn bè năm châu bốn biển chúng tôi mới càng thấy hết uy tín to lớn của Bác Hồ và càng thấy hết vinh dự một người dân của nước Việt Nam.

Sau Đại hội, trên đường trở về chiến trường, chúng tôi dừng lại Hà Nội. Ngay sau đó cả đoàn thanh niên được Bác cho gặp. Tôi sung sướng đến ngất ngây. Ước mơ bao năm tháng giờ đã thành sự thật. Trong đoàn chúng tôi có một số anh hùng dũng sỹ và đại biểu đã có lần được gặp Bác, nhưng tất cả đều có một tâm tư như chúng tôi "Mới gặp Bác lần đầu. Chúng tôi ngắm Bác như người bị thôi miên". Tôi nhìn kỹ đôi mắt Bác, đôi mắt của Bác sáng, kiên nghị và lại rất dịu dàng. Câu chuyện tôi được nghe từ bé: Mắt Bác có hai con ngươi đã được khẳng định là không đúng. Nhưng giờ đây tự nhiên tôi tin rằng điều đó là đúng vì tôi chưa gặp mắt ai tinh tường như đôi mắt Bác. Tôi nhìn từng sợi râu của Bác. Râu Bác, tóc Bác bạc trắng óng ánh dưới ánh điện sáng trong như cước. Bác già, nhưng khỏe mạnh và nhanh nhẹn. Hôm ấy, đồng chí Trưởng đoàn Trần Văn Tư báo cáo để Bác nghe về Đại hội. Bác rất vui vẻ, nghe xong Bác nói:

- Có bạn bè thế giới ủng hộ như vậy, các cháu có tin rằng ta nhất định thắng hay không?

- Có ạ. Chúng tôi đồng thanh đáp.

Bác cười vui vẻ:

 Đúng! Chúng ta nhất định thắng, miền Nam nhất định được giải phóng.

Hôm đó, Bác cũng dặn chúng tôi: Đừng vì thấy bạn bè thế giới kính nể, tôn trọng mà huênh hoang, tự mãn. Phải khiêm tốn và phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ lớn hơn nữa. Vì có thắng Mỹ lớn thì bạn bè mới càng thương yêu ta nhiều hơn, và như vậy là ta không phụ lòng của bạn bè thế giới.

Được gặp Bác, tôi nghĩ rằng đó là diễm phúc, là niềm vinh dự lớn nhất của đời tôi. Ra về, cả đêm tôi thao thức, mong chóng được trở về chiến trường báo cáo lại với anh em đồng chí và bà con quê nhà để tất cả cùng chung niềm vui to lớn này.

Nhưng, một sự không ngờ đã đến... Sau đó ít lâu, trong khi tôi đang chờ xe trở về chiến trường thì có tin: Bác cho gọi vào gặp.

Niềm vui đột ngột quá, chúng tôi cứ thấy chân tay luống cuống không biết làm gì trước làm gì sau. Hôm ấy Bác cho gọi tôi, chị Trương Thị Khuê, anh hùng các lực lượng vũ trang của tỉnh Vĩnh Linh cũng cùng đi dự Đại hội ở Xôphia về (trong đoàn đại biểu miền Bắc), và chị Nguyễn Thị Xuân, nữ dân quân Quảng Bình, một mình bắn rơi một máy bay phản lực của Mỹ bằng súng bộ binh. Chị Xuân là nữ thanh niên công giáo, chị cũng vừa đi thăm Liên Xô về. Cả ba chúng tôi chuẩn bị áo quần và lên xe vào Phủ Chủ tịch. Chú Vũ Kỳ, Thư ký của Bác đã chờ sẵn. Chúng tôi hỏi ngay chú Kỳ:

- Lúc gặp Bác chúng cháu nên chào theo kiểu nào?

- Các cháu là dân quân, chào theo lối quân sự cũng được.

Chú Kỳ đưa chúng tôi về ngôi nhà nhỏ ở giữa vườn, từ xa tôi đã thoáng nhìn thấy Bác qua cửa sổ. Chúng tôi hồi hộp tiến lên phía cửa và đứng xếp hàng ngang, chú Vũ Kỳ báo cáo với Bác:

- Thưa Bác, ba cháu dân quân gái được Bác cho gọi đã đến.

Bác ngồi đọc báo cạnh chiếc bàn tròn, xung quanh có bốn chiếc ghế mây để trống. Bác ngước nhìn về phía chúng tôi. Ba chị em chúng tôi đứng nghiêm đưa tay lên vành mũ trân trọng chào Bác. Bác như một vị chỉ huy quân sự ra hiệu tiếp nhận sự có mặt của chúng tôi, rồi Bác tươi cười cho phép chúng tôi ngồi vào bàn. Trên bàn có để sẵn kẹo và nước. Hôm ấy, Bác mặc áo trắng ngắn tay, may kiểu ba túi rộng rãi. Bác vẫn mang dép cao su, đôi dép quai to đã mòn gót mà tôi đã nhìn thấy trong lần gặp trước.

Sau khi nghe chú Vũ Kỳ giới thiệu tên tuổi của chúng tôi, Bác bảo chúng tôi ăn kẹo rồi uống nước. Liền lúc đó đồng chí phục vụ bưng lên một đĩa bánh bao, mỗi cái bằng nắm tay. Bác nhấc đĩa bánh bao đưa cho chúng tôi và bảo:

- Các cháu ăn bánh bao đi!

Chúng tôi chưa ăn hết nửa cái bánh thứ nhất, Bác đã cho thêm mỗi người một cái nữa, chúng tôi phải cầm sang tay bên kia. Cả ba chị em vừa ăn vừa tủm tỉm cười nhìn nhau. Thật giống như cảnh ba đứa cháu nhỏ quây quần bên người ông cao tuổi trong những ngày rằm. Bác vừa âu yếm nhìn chúng tôi vừa ăn vừa hỏi chuyện. Bác hỏi tôi về chuyện đánh Mỹ ở Khe Sanh, về đời sống của anh chị em chiến sỹ quân giải phóng. Bác hỏi chị Xuân, chị Khuê về cuộc sống dưới hầm, bám ruộng đồng sản xuất và chiến đấu của bà con Vĩnh Linh, Quảng Bình. Cuối cùng Bác quay về phía tôi và chị Khuê:

- Bây giờ hai cháu kể chuyện Đại hội ở Xôphia cho Bác nghe.

Bằng những mẩu chuyện cụ thể, chúng tôi thưa lại với Bác những tình cảm nồng thắm của bạn bè thế giới ở Đại hội. Nghe tôi kể chuyện về các bạn Italia, Bác cảm động nói:

- Miền Nam đã làm thơm danh Bác với bạn bè thế giới.

Bác giục chúng tôi ăn kẹo và như hiểu được ý muốn của từng đứa cháu nhỏ, Bác lấy giấy gói cho mỗi người một phần. Sau đó, Bác cho ra chụp ảnh chung với Bác. Lúc đó đã 5 giờ chiều, ánh nắng dìu dịu chiếu qua vườn cây cổ thụ càng tôn vẻ đẹp rất trang nhã trong vườn Bác. Bác sửa lại cổ áo và dẫn ba chị em chúng tôi ra chụp ảnh. Trong khi đồng chí nhiếp ảnh chuẩn bị địa điểm, Bác bảo chúng tôi:

- Mỗi cháu hát cho Bác nghe một bài nhé.

Ba chúng tôi nhìn nhau bối rối vì khoản này chúng tôi rất vụng về. Nhưng ngay lúc đó tôi nghĩ rằng: Lúc ở chiến hào mình hát như thế nào, bây giờ hát như thế để Bác nghe, chắc Bác sẽ vui. Tôi mạnh dạn xin Bác:

- Thưa Bác cháu xin hát trước.

Bác cười rất vui:

- Cháu hát bài gì?

- Thưa Bác, cháu hát bài "Tiếng hát trên đường quê hương".

Bác gật đầu. Bỗng Bác đưa tay ra hiệu tôi khoan hát, Bác cho gọi các chú trong cơ quan đang làm việc gần đó lại cùng nghe. Tôi hồi hộp cất giọng hát. Trong bài hát có đoạn "Ai đã tới miền quê em Quảng Trị - Thừa Thiên, qua đường 9 tình Gio Linh lắng trong giọng hò....", Bác khẽ gật đầu theo nhịp điệu của bài hát. Tôi hát xong, Bác cười và đưa ngón tay về phía chị Xuân:

- Cháu Bưởi hát rất tốt, bây giờ cháu Xuân hát bài gì?

Chị Xuân thưa với Bác:

- Cháu xin ngâm một bài thơ về Quảng Bình.

Khi chị Xuân ngâm xong Bác vỗ tay, các cô các chú đứng nghe rồi vỗ tay. Bác quay về phía chị Khuê. Không chờ Bác hỏi, chị Khuê thưa:

- Thưa Bác, cháu xin hò một câu mái nhì do Đội Văn nghệ Vĩnh Thủy quê cháu sáng tác.

- Tốt lắm! Bác gật đầu vừa ý.

Ba chị em chúng tôi hát xong, Bác lại khen:

- Các cháu hát hay lắm. Quay lại phía các chú, Bác nói: "Các cháu gái hát rồi, bây giờ đến lượt các chú hát cho các cháu nghe".

Các chú cười nhìn nhau, Bác nói:

- Hát đi chứ, sao lại cười. Tất cả cùng cười vui vẻ.

Khi chuẩn bị chụp ảnh, Bác hỏi;

- Cháu nào muốn đứng gần Bác?

Chúng tôi sung sướng quá, ai cũng muốn được đứng gần Bác. Bác cười rất độ lượng:

- Cho mỗi cháu đứng gần Bác một lần.

Tôi đứng phía bên trái của Bác, bên kia là hai chị Khuê và Xuân. Bác ân cần nói:

- Cháu Bưởi miền Nam được đứng nguyên chỗ này.

Tôi cảm động quá! Lúc nào Bác cũng nghĩ tới miền Nam, lúc nào Bác cũng dành cho miền Nam phần vinh dự nhất. Trong niềm vui hả hê đó, tôi thấy nước mắt mình muốn trào ra.... Chụp ảnh xong, Bác dẫn chúng tôi đến trước nhà, dưới một gốc cây to có treo một bồn hoa phong lan mới nở trắng ngần và tỏa mùi thơm ngào ngạt. Bác ngắt cho chúng tôi mỗi người một chùm và nói:

- Các cháu về trong ấy nói với bà con mình Bác gửi lời thăm. Chúc bà con chiến đấu, sản xuất giỏi. Riêng ba cháu phải phấn đấu giành nhiều thắng lợi hơn nữa.

Chúng tôi vô cùng cảm động, mỗi người đều hứa với Bác ra về sẽ cố gắng hết sức để thực hiện lời Bác dạy. Bác gật đầu vui vẻ và thư thả chống can bước vào nhà. Chúng tôi tần ngần xúc động... Ba ngày sau, chúng tôi được Bác gọi vào cho xem văn công. Thật là những niềm vinh dự không ngờ. Chúng tôi đến nơi vài phút thì Bác đến, Bác hỏi:

- Các cháu đã được đi tham quan Thủ đô chưa?

- Thưa Bác có ạ.

- Các chú cho các cháu đi thăm những đâu?

Tôi thưa với Bác:

- Dạ! Thưa Bác, các chú bên Tổng cục Chính trị cho chúng cháu đi thăm Viện bảo tàng quân đội, Viện bảo tàng cách mạng và nhiều danh lam thắng cảnh của Hà Nội.

Bác gật đầu vừa ý và hỏi tiếp:

- Các cháu có muốn nói gì với Bác nữa không?

Câu hỏi của Bác làm chúng tôi lúng túng, ba chị em nhìn nhau, biết bao điều muốn thưa với Bác. Nhưng biết nói thế nào để Bác vui. Nói sao cho hết được tình cảm của đồng bào miền Nam đối với Bác.... Bỗng chị Khuê nắm chặt hai bàn tay để trước ngực thưa với Bác:

- Thưa Bác, chúng cháu xin được hôn Bác.

Bác cười.

Trước khi chúng tôi ra về Bác dặn:

- Về trong ấy, các cháu cố gắng chiến đấu giỏi, sản xuất tốt và phấn đấu học tập. Các cháu nhớ nói với bà con trong ấy Bác có lời hỏi thăm.

Chúng tôi ra xe, lòng những lưu luyến vì những phút thiêng liêng bên Bác không còn nữa. Nhưng cũng từ phút ấy chúng tôi thấy mình được thêm sức mạnh và lớn lên rất nhiều. Chú Phạm Văn Đồng đưa chúng tôi ra xe và căn dặn:

- Các cháu về nhớ làm tốt những lời Bác Hồ đã dạy. Nhớ nói với bà con thôn xóm chú gửi lời thăm.

(Trích từ sách: Miền Nam trong lòng Bác,
Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1975.)

Hết

Tâm Trang (tổng hợp)

Bài viết khác: