Hệ thống Trợ năng

Chỉ mục bài viết

 Mãi mãi không quên (Bích Thuận kể)

Hồ Chí Minh! Cha chúng ta về một ngày thu muôn ánh sao bay rợp thành đô!

Có lẽ chưa một lần nào trong đời, chúng tôi được hát  vui, hát với tất cả tâm hồn mình như cái ngày tháng 3-1950 ấy. Chúng tôi được chào đón Bác, Bác tới thăm các đại biểu về dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất.

Những gương mặt xanh xao vì sốt rét, vì những đêm nằm hầm bỗng rạng rỡ hồng hào, những đôi mắt sáng lên, không rời nhìn Bác, những đôi mắt hầu như không chớp. Bác đã đến thật rồi kìa! Nước da Bác rám hồng, vầng trán cao rộng của Bác còn đọng lấm tấm những giọt mồ hôi. Bác vừa vượt qua một chặng đường khá vất vả đến thăm chúng tôi.

Bác đây. Bộ quần áo lụa nhẹ màu nâu chân chất, chòm râu bạc phơ, gương mặt hiền từ, luôn nở nụ cười độ lượng trước những câu hỏi, những lời chào của lớp lớp đàn cháu gái.

Những chị cán bộ lãnh đạo từng trải, những chị cán bộ gan góc vùng sau lưng địch, những chị cán bộ vùng rẻo cao, trong phút giây đều quên hết nghi thức và tất cả bỗng hồn nhiên, bỗng như trẻ thơ trước mặt Bác.

Bác cháu quây quần tụ họp dưới bóng cây xanh mát rượi của rừng nứa, lúc những đốm nắng cuối xuân đang xao động.

Bác thân thiết hỏi thăm các đại biểu về dự Đại hội. Nam Bộ, Khu V, miền xuôi, miền núi, vùng tự do, vùng tạm bị địch chiếm, chúng tôi có cảm giác Bác đã hiểu tất cả. Tấm lòng những người dân vùng sau lưng địch luôn luôn hướng về kháng chiến, lòng dân vùng rẻo cao, sự hy sinh tận tụy của cán bộ từ cơ sở.

Cảnh sum họp dưới cánh rừng nứa buổi chiều hôm ấy thực sự đầm ấm, đầy tình thương yêu thân thiết của đại gia đình cách mạng. Bác nói chuyện với Đại hội, và rồi Bác cho phép các đại biểu được hỏi Bác, về việc gì cũng được, việc công cũng như việc tư.

Nhiều chị đã mạnh dạn hỏi Bác về những điều các chị chưa hiểu: Chuyện công tác, chuyện gia đình. Hội trường nhiều lần vang lên tiếng cười vui vẻ. Câu trả lời của Bác thường giản dị và đôi lúc dí dỏm.

Rồi chúng tôi được chụp ảnh chung với Bác. Cũng chưa bao giờ chị em lại háo hức đòi chụp ảnh đến thế.

Những đốm nắng trong cánh rừng nhạt dần. Bác sắp ra về. Lòng dạ chúng tôi nao lên. Bao giờ mới lại được gặp Bác lần thứ hai nữa? Kìa, Bác đang sửa soạn ra về, rõ ràng, dứt khoát như khi Bác đến. Hội trường sâu lắng một giây. Tất cả đang hướng lên, về phía Bác. Giọng Bác ấm áp:

"Bác chúc các cô ra về mạnh khỏe. Về địa phương, những chị em nào có thành tích, các cô nhớ gửi báo cáo lên cho Bác".

Những lời căn dặn của Bác vang vọng mãi trong tôi. Tôi suy nghĩ mãi "Chị em nào có thành tích, các cô nhớ gửi báo cáo lên cho Bác". Chị du kích đội Trưng Trắc, bà mẹ chiến sĩ Nam phần Bắc Ninh tôi được gặp những ngày theo bộ đội vào vùng sau lưng địch. "Vâng, thưa Bác, cháu sẽ cố gắng".

Những buổi tối mùa Hạ, dưới ánh đèn nhựa trám, tôi cố gắng viết về những trận đánh giặc bằng đòn gánh, bằng mưu trí của những cô gái từng trồng dâu nuôi tằm ở một làng ven sông Đuống. Tôi viết về lòng yêu nước, thương bộ đội của bà mẹ chỉ quen nghề quay tở, dệt cửi.

Mừng sinh nhật Bác 60 tuổi, tôi gửi thư lên, chúc thọ Bác và mạnh dạn gửi lên Bác những trang viết đầu tiên đó.

Tôi có ngờ đâu Bác cũng đọc những mẩu chuyện nhỏ ấy.

Một buổi sáng tháng 6, tôi vừa đi công tác về, các đồng chí trong cơ quan vui mừng báo tin cho tôi biết: "Có thư Bác gửi". Thư của Bác kèm theo một tấm Huy hiệu. Một tấm hình Bác mà đêm đêm ở rừng sâu Việt Bắc, dưới ánh đèn dầu, tôi thường soi vào lòng bàn tay mình để thấy Bác được rõ hơn, để mình tự nhủ mình phải làm việc tốt hơn, như  lời Bác dặn trong thư: "Bác khuyên cháu cố gắng để tiến bộ mãi".

Mùa Hè năm 1951, tôi đi theo một đơn vị quân y phục vụ chiến dịch Hà - Nam - Ninh. Tôi đi với các đoàn dân công, đi tới các đội điều trị. Và tôi viết về các chị dân công làm nhiệm vụ tiếp tế, tải thương, về các bà mẹ hết lòng phục vụ thương binh. Từ cuộc cách mạng, cuộc kháng chiến thành công do Bác cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo, đã nảy sinh biết bao người phụ nữ mới. Những người phụ nữ trung thành và tận tụy. Tôi phải viết về họ, và một lần nữa, tôi gửi lên Bác những mẩu chuyện tôi ghi chép trong chiến dịch.

Một buổi sáng mùa Đông, một món qùa bất ngờ nữa đến với tôi. Bác cho gọi tôi đến.  Bác cẩn thận dặn đồng chí Thắng trong đơn vị bảo vệ Bác, nhắc tôi ăn sáng và nắm thêm một nắm cơm ăn dọc đường. Nhưng vì quá mừng tôi chỉ ăn qua quít rồi vội theo anh đi ngay.

Bầu trời xanh của núi rừng Việt Bắc mở rộng trước mắt tôi. Ánh sáng mùa Đông hôm ấy sao ấm thế, cánh rừng sao đẹp thế, dòng suối sao trong thế. Chân tôi đi, đi mãi mà không mỏi. Hết cánh rừng này đến cánh rừng khác, hết dốc cao này đến một dốc cao khác. Chúng tôi đi một mạch không nghỉ, không ăn, không uống và đến chiều thì tới nơi Bác ở.

Tim tôi đập mạnh khi tôi bắt đầu được đặt chân lên con đường hàng ngày từng in dấu chân Bác. Con suối lớn trước cửa nơi nhà Bác ở. Và nhà Bác đây rồi. Thoạt tiên là một gian nhà bếp sáng sủa, sạch sẽ. Lên một khúc nữa là gian nhà nơi Bác ăn cơm, và cũng là phòng nghỉ của đơn vị bảo vệ. Cạnh đó là nhà khách.

Tôi nôn nóng được tới chào Bác, Bác đang làm việc. Mười ngón tay của Bác gõ giòn giã trên bàn máy chữ. Một mảng nắng chiều mùa Đông hắt lên vầng trán cao rộng của Bác, lên bộ quần áo nâu giản dị Bác đang mặc.

Tôi chạy vội lại bàn làm việc của Bác, tôi chào Bác mà hai mi mắt cứ nóng ran cả lên. Bác cười, hỏi tôi đi đường có nhớ mang cơm nắm đi ăn không, đi đường xa có mệt không? Tôi đáp "Thưa Bác, được đến thăm Bác, cháu mừng quá nên không mệt, không đói ạ". Tôi nhìn ngắm mãi ngôi nhà Bác ở, một nếp nhà thực giản dị. Giường Bác nằm nghỉ, cái bàn bên cửa sổ nơi Bác làm việc, mọi vật đều trật tự, ngăn nắp. Tôi nhìn và tôi thấy hầu như không có gì xa cách giữa ngôi nhà của một vị Chủ tịch nước và nhà của các cơ quan.

Bác hỏi tôi chuyện gia đình, chuyện công tác. Bác hỏi thăm một vài chị trong cơ quan tôi, đời sống của chúng tôi. Tôi nói với Bác những ngày chúng tôi đi chiến dịch, chuyện các bà mẹ, các chị em phục vụ chiến trường, các chiến sĩ bị thương. Bác nghe và đột nhiên Bác bảo: "Cô viết còn nhạt lắm". Bác gọi các anh ở Văn phòng lên, bảo các anh xếp chỗ nghỉ cho tôi.

Hôm sau, Bác giao cho tôi một việc: Đọc những số báo Bác đưa cho, báo Nhân đạo, báo Vì một nền hòa bình lâu dài, lấy ở trong đó những mẩu chuyện, những tin tức mình đang cần, ví dụ: Mẩu chuyện phản đối chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, tố cáo chế độ tư bản, đế quốc....

Bác lại hỏi tôi về những bài viết của C.B. đăng trong báo Nhân dân. Tôi thưa với Bác về cách viết của C.B. Bác gật đầu. Bác bảo: "Bây giờ cô cũng viết như thế cho Bác xem". Ở Văn phòng Bác, buổi sáng tôi đọc báo đến khoảng 10 giờ. Chiều và tối, cũng đọc báo, đọc những mẩu chuyện đánh máy bằng tiếng Pháp Bác đưa cho, toàn là chuyện đánh Pháp cả. Tôi nhớ nhất là chuyện "Chị Ba vườn chuối". Chị Ba đã chặt hết cây chuối trong vườn nhà để giúp bộ đội vượt sông. Giặc Pháp đến, tra hỏi chị, chị một mực không khai và chị đã hi sinh anh dũng ngay trong vườn chuối nhà chị. Trong thời gian ba ngày, tôi lượm nhặt tin tức và viết được năm bài báo ngắn gửi lên Bác.

Những bài viết của tôi năm ấy được Bác giữ lại, mỗi bài có đính theo bản góp ý chung cho cả bài, lại nêu từng câu, từng ý, câu này viết chưa ổn nên viết thế nào, vì sao phải viết như thế... Những bài báo ấy đến nay tôi vẫn còn nâng niu gìn giữ.

Tháng 5-1961, Bác đến thăm Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quân. Khi Bác ra về, tôi còn đứng trông theo Bác mãi.... Xe Bác đã chuyển bánh, bỗng Bác ra hiệu cho đồng chí lái xe dừng lại. Và Bác vẫy gọi tôi đến. Sung sướng, cảm động, tôi chạy vội tới chào Bác. Bác hỏi tôi về đời sống gia đình, về công tác. Khi biết tôi vẫn viết báo, Bác gật đầu cười vui vẻ.

Mỗi lần tới thăm Đại hội các nhà báo, Bác đều gọi các cháu gái viết báo lên ngồi hàng ghế đầu. Bác kể chuyện những năm Bác làm báo cho chúng tôi nghe.

Bác thường căn dặn chúng tôi phải viết cho hay, cho chân thực, cho sinh động, cho hùng hồn về những con người mới của thời đại ta, chế độ ta. Chúng tôi chưa làm được như Bác mong muốn.

Tình thương của Bác vẫn dẫn dắt chúng tôi vượt qua bao trở ngại mãi mãi tôi không bao giờ quên được.

(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975).

Niềm vinh dự lớn (Nguyễn Thị Khương kể)

Tại Đại hội anh hùng chiến sỹ thi đua toàn miền Bắc năm 1958, tôi được bầu là Anh hùng lao động, được Chính phủ và Quốc hội tặng Huân chương Lao động hạng Nhất và được gặp Bác Hồ. Hôm ấy, Bác đến, cả hội trường rộn lên vui mừng rồi lặng đi trong xúc động. Tôi không biết dùng lời nào để nói hết được tình cảm của tôi lúc ấy.

Thấy Bác hồng hào, khỏe mạnh, tôi mừng lắm. Giờ giải lao, đôi chân tôi như cái máy tự động đi lại chỗ bậc lên xuống, thầm nghĩ cứ đón Bác ở đây thế nào cũng được gặp. Quả nhiên, Bác đang nhẹ nhàng bước xuống gần tôi. Tôi cúi mặt không cho Bác thấy giọt nước mắt sung sướng cứ tự nhiên trào ra. Bác đã nhìn thấy tôi. Tôi nghe rất rõ tiếng Bác gọi: "A! Cô Khương", rồi Bác chìa tay bắt tay tôi và bảo tôi đi ra uống nước. Hai Bác cháu cùng ngồi và ăn chuối, uống nước, Bác hỏi chuyện:

- Cô có khỏe không?

- Dạ thưa Bác, cháu khỏe lắm ạ.

- Cô có mấy cháu rồi? Các cháu có ngoan không?

- Dạ thưa Bác, cháu có một con. Nó rất ngoan ạ.

Bác căn dặn:

- Xã của cô khá lắm. Cô về cố gắng cùng các đồng chí ở xã thúc đẩy phong trào tiến lên, đã tốt rồi thì làm tốt hơn nữa. Các cô, các chú được bầu là Anh hùng, Chiến sĩ rồi phải phát huy vai trò đầu tàu gương mẫu, không được tự kiêu, tự mãn. Nói phải làm và làm phải nói như cô là rất tốt. Nói không làm là nói suông, làm không nói là tự bó mình lại, làm thay quần chúng, không phát huy được vai trò đầu tàu.

Sau Hội nghị, Bác chụp ảnh chung với các Anh hùng, Chiến sĩ. Nhìn thấy tôi, Bác chìa tay vẫy:

- Còn cô Khương nữa, lại gần đây!

Tôi len tới, Bác cho tôi ngồi cạnh Bác. Chụp ảnh xong, Bác cho cả chúng tôi về nơi Bác ở dự buổi họp mặt liên hoan. Bác hỏi tôi:

- Cô ở Hòa Bình về đây dự Hội nghị có vui không? về, cô định thực hiện thế nào?

- Dạ thưa Bác, cháu vui và phấn khởi lắm, lòng dạ sáng ra nhiều, nhiều cái hay cái tốt quá nhưng cháu không tiếp thu được hết, chỉ nhớ những cái địa phương cháu có thể vận dụng được thôi, như: Ngâm giống ba sôi hai lạnh và làm xe giải phóng đôi vai...

Bác gật đầu, cười, nói:

- Cô cứ làm được từng đấy việc là tốt rồi.

Đoàn chúng tôi được sang thăm đất nước Trung Quốc. Trong thời gian ở Trung Quốc, chúng tôi đã được các đồng chí bạn đón tiếp nồng nhiệt và cho đi tham quan mười tỉnh. Tôi đã thất rất nhiều điều mới lạ, bổ ích. Trở về Hà Nội, chúng tôi lại được Bác cho gặp. Bác hỏi:

- Các cô các chú đi tham quan nước bạn có vui thích không? Mắt thấy tai nghe những điều tốt đẹp như thế nào?

Đồng chí Hồng Tiến, Trưởng đoàn đứng lên định báo cáo tình hình, nhưng Bác vẫy tay ra hiệu ngồi xuống.

- Chú thì chú biết rồi, Bác hỏi các cô các chú khác kia. - Nhìn thấy tôi Bác hỏi luôn:

- Cô Khương thấy thế nào, về địa phương có áp dụng được không?

- Dạ thưa Bác, cháu được Đảng, Chính phủ và Bác cho đi thăm nước bạn, lòng cháu vui lắm. Thành tích, kinh nghiệm của nước bạn có nhiều nhưng nhận thức của cháu có hạn.

Bác gật đầu:

- Cháu đi như thế là có kết quả tốt. Thành tích, kinh nghiệm của nước bạn có nhiều, thấy thành tích để ta tin tưởng, thấy kinh nghiệm để ta học tập, vận dụng nhưng không áp dụng máy móc, rập khuân tất cả kinh nghiệm của nước bạn vào hoàn cảnh của ta.

Muốn tiến kịp nước bạn, ta không nóng vội nhưng phải cố gắng nhiều. Các cháu là những người tiên tiến phải nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần tự lực cánh sinh, phát huy vai trò đầu tàu của mình hơn nữa.

Tôi ngồi ngắm nhìn mái tóc bạc phơ của Bác, kẹo bánh trước mắt còn nguyên không ăn cũng thấy ngon rồi. Thấy tôi không ăn, Bác đến gần hỏi:

- Sao cô Khương không ăn bánh kẹo?

- Dạ thưa Bác, cháu vui mừng quá....

Bác nói:

- Cô ăn đi, và có cháu nhỏ, lấy phần về cho cháu. - Bác gói kẹo thân mật đưa cho tôi:

- Cô đem về cho cháu, quà của Bác đấy.

Ra về, tôi chỉ muốn đi nhanh đem gói quà của Bác cho đứa con đầu lòng ở nhà và các cháu khác nữa. Anh em đi cùng thấy tôi có hân hạnh được Bác cho quà, ai cũng vui mừng. Tôi đã chia cho mỗi người vài cái. Chiếc kẹo của Bác đã thành món quà quý nhất đem về quê hương, ai cũng nâng niu, lòng vô cùng sung sướng. Còn một ít, tôi gói kỹ đem về cho con. Thấy tôi đi lâu về, con tôi vừa mừng vừa hờn dỗi, quay mặt đi khóc không cho tôi bế. Tôi nựng cháu: "Mẹ thương, mẹ nhớ con ngoan, con quý. Bác Hồ gửi kẹo cho con đây này!".

Đôi mắt cháu giương lên tròn xoe, vừa nũng nịu, vừa hớn hở vui mừng. Tôi đoán nó vui mừng vì lâu ngày không gặp lại tôi và vui mừng vì được Bác Hồ cho kẹo. Nó ăn một chiếc còn để dành, gặp ai nó cũng khoe "Bác Hồ cho kẹo".

Cho tới nay, tôi đã vinh dự được gặp Bác nhiều lần và mỗi lần gặp Bác, tôi vẫn có cảm tưởng như vừa được gặp Bác lần đầu, bùi ngùi xúc động không nói lên lời.

(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975).

Vinh hạnh lớn lao nhất của đời tôi (Lê Thị Hảo kể)

Là một đứa con của "miền Nam đi trước về sau", tôi có một lần được tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vinh hạnh lớn lao nhất của cả một đời người đã đến với tôi.

Hôm đó một số anh chị em chúng tôi đại diện cho Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình thành phố Huế được vào thăm Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại ngôi nhà đơn sơ của Thủ tướng cách Phủ Chủ tịch không xa.

Thủ tướng tiếp chúng tôi độ 15 phút thì Bác Hồ đến. Bác thật giản dị, nhẹ nhàng và tâm hồn chúng tôi ngập tràn một niềm vui lâng lâng tỏa ngát.

Bác đến! Điều thật lạ là tôi không ngỡ ngàng mà lại cảm thấy ngay một cái gì rất gần gũi, thân thương, rất quen thuộc với ánh mắt và nụ cười đầu tiên của Bác. Bác đã nhìn và đã cười với chúng tôi, những đứa con mới ở xa về, và tâm hồn chúng tôi lung linh ánh sáng như được Bác trao truyền.

Ở Bác tỏa ra một sự tươi tắn, mát mẻ, một niềm vui thường xuyên và một tình thương rộng lớn. Tôi hiểu rằng Bác thương yêu và Bác vui thích gặp những đứa con của miền Nam, nơi luôn luôn ở trong tim của Bác. Tôi lặng nhìn chòm râu bạc, đôi mắt sáng, nụ cười tươi mát đang hấp dẫn tôi đến mức tôi thật sự không còn để ý đến sự có mặt của những người chung quanh.

Bác bắt tay anh chị em chúng tôi rồi vui vẻ chỉ ghế mời chúng tôi ngồi. Bác hồn nhiên, cởi mở, chủ động và gần gũi với tất cả đàn con đang quây quần chung quanh Người. Vào câu chuyện, Bác nói lên một câu nói trang trọng đầy tình nghĩa. Nhìn Thủ tướng Phạm Văn Đồng rồi nhìn sang chúng tôi khắp lượt, Bác nói, giọng chậm rãi, ôn tồn, ấm áp:

- Hôm nay tôi và đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt 20 triệu đồng bào miền Bắc hoan nghênh các cô các chú trong Liên minh ra thăm miền Bắc.

Bác lần lượt hỏi thăm sức khỏe mỗi người chúng tôi. Người hỏi về chuyến đi từ trong vùng giải phóng miền Nam ra đến miền Bắc có an toàn không? Đi bằng phương tiện gì? Đường sá như thế nào? Ăn uống ra làm sao? Bác lại hỏi gia đình của mỗi chúng tôi hiện ở đâu? Có được an toàn không? Sinh sống làm ăn thế nào? Bác hỏi rất tỉ mỉ, rất thân tình. Chúng tôi không dám nói nhiều về bản thân nhưng khi nghe chúng tôi trả lời ngắn, Bác lại hỏi thêm một số chi tiết cho đầy đủ. Thấy tôi đeo kính cận thị Bác hỏi kính nặng mấy điốp. Rõ ràng là Người có sự quan tâm rất mực của một người cha hiền.

Bác hỏi chúng tôi rất kỹ về tình hình vùng giải phóng, vùng đô thị bị tạm chiếm. Nghe kể về Huế, Bác rất chăm chú, thỉnh thoảng Bác gợi lại vài kỷ niệm của thời thơ ấu, nhắc tới những nơi Bác đã từng sống qua: Trường Quốc học, thành nội, chợ Xép, quán Ao Hồ, cầu Tràng Tiền.... Bác hỏi ở Huế có những chén chè nho nhỏ để trên cái trẹt bán mỗi chén một tiền còn hay không? Bác nhắc tới tên vài đường phố cũ ở Huế nà thuở nhỏ Bác đi học ở đây thường qua lại. Trí nhớ của Bác thật dồi dào, Bác hồ hởi nhắc lạo tuổi trẻ của mình bên bờ sông Hương. Giọng Bác thực sự xúc động khi hỏi sông Hương hiện nay còn đẹp không? Đồng bào mình dưới ách Mỹ ngụy khổ đến mức nào? Câu nói dạt dào tình thương vô hạn đối với đồng bào miền Nam và gợi lên trong lòng chúng tôi một nỗi xốn sang căm thù da diết kẻ thù cướp nước và bán nước. Miền Nam! Miền Nam còn chưa giải phóng. Chúng tôi xót xa nghĩ tới miền Nam khi đang được ngồi dưới bầu trời miền Bắc, bên cạnh Cha già, hiện thân vĩ đại của độc lập, tự do.

Bác nói bằng lời văn giản dị, nôm na, ngắn gọn, cô đúc mà chúng tôi thấy thật là mới mẻ, nhẹ nhàng. Ở vùng tạm bị chiếm miền Nam, cả đến ngôn ngữ cũng bị vẩn đục, lai căng pha tạp. Những lời nói của Bác đối với tôi là cả một bài học lớn về tiếng nói, cách nói, cách dùng từ. Ngôn ngữ của Bác giàu hình tượng, sinh động như trong ca dao tục ngữ. Bác dùng chữ, đặt câu rất giản dị và chuẩn xác. Nếu có ai trong chúng tôi dùng chữ chưa được chuẩn, sử dụng từ Hán Việt nặng nề, phức tạp, không cần thiết thì Bác nhẹ nhàng vui vẻ chữa lại cho chúng tôi.

Qua cuộc nói chuyện, Bác đánh giá cao những hy sinh gian khổ, những sự tích anh hùng của đồngbào ta ở hai miền với một tấm lòng ưu ái đặc biệt dành cho miền Nam tiền tuyến đầu sóng ngọn gió. Bác nhắc nhở chúng tôi đức khiêm tốn và ý chí tiếp tục phấn đấu, đừng tự cao, tự mãn, Bác bảo chúng tôi:

- Giỏi thì có giỏi thật đấy nhưng cứ nói gì thì nói chứ đừng vội kết luận rằng dân tộc Việt Nam là nhất thế giới nhé

Mọi người chúng tôi lấy làm vui được nghe Bác truyền cho bài học khiêm tốn, giản dị mà sâu sắc ấy. Ở gần bên Bác, tôi vừa cảm thấy được động viên, cổ vũ khích lệ rất nhiều, đồng thời cũng cảm thấy mình chưa làm được bao nhiêu so với  yêu cầu của thực tế và lòng mong muốn của Bác.

Thời gian ở bên cạnh Bác trôi nhanh như một giấc mơ tuyệt đẹp. Ai cũng muốn nó kéo dài mãi mà lại không dám ngồi lâu vì sợ Bác mệt. Đến lúc những đứa con của Bác phải nghĩ đến bảo vệ sức khỏe cho Cha già của mình. Lòng đầy lưu luyến, chúng tôi nhìn nhau với ý định xin Bác cho ra về để Bác nghỉ ngơi.

Bác rất hiểu nỗi lòng chúng tôi lúc này và để tỏ lòng thương yêu của mình, Bác bảo chúng tôi ngồi lại với Bác mười lăm phút nữa. Bác bảo nhỏ vào tai đồng chí cần vụ, vài phút sau đồng chí ấy trở lại với một cái đồng hồ để bàn đã cũ (mà Bác vẫn thường dùng hàng ngày) và một chiếc phong bì lớn. Bác muốn tặng chúng tôi một tấm ảnh lớn để làm kỷ niệm. Trong ảnh, chúng tôi thấy Bác ngồi ở giữa, cười rất tươi, rất hiền, quây quần chung quanh là bảy, tám cháu thiếu nhi miền Nam, có nét mặt ngây thơ nhưng đều là dũng sĩ diệt Mỹ. Tất cả các cháu đều tỏ ra vui sướng được ở gần bên Bác.

Bác Hồ nhìn vào trong ảnh rồi nhìn một chị trong đoàn chúng tôi và nói với một giọng khoan thai đầy xúc động:

- Dân tộc ta đời đời ca ngợi và nhớ ơn những bà mẹ Việt Nam đã sinh ra những anh hùng dũng sĩ như thế này đây.

Chất trữ tình bình dị, hồn hậu mà tha thiết trong những câu nói của Bác làm cho mọi người ứ nước mắt. Bác đã nói lên những chân lý của lịch sử mà cũng là những tình cảm lớn trong lòng chúng tôi.

Bác đã nhắc tới người phụ nữ Việt Nam, nhưng chính bản thân Bác cũng có tấm lòng vĩ đại của người mẹ Việt Nam, suốt đời mình Bác đã hy sinh hạnh phúc gia đình, hạnh phúc cá nhân vì đại nghĩa dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân. Tấm lòng của Bác đối với miền Nam thể hiện qua tình thương của Bác đối với chúng tôi, làm cho tôi cảm thấy nhớ da diết những đồng bào, đồng chí, những người thân còn ở lại trong lòng miền Nam tạm thời bị Mỹ ngụy chiếm đóng. Bác thong thả đứng dậy âu yếm nhìn và chào mọi người rồi chống gậy đi ra. Bác khoan thai từ biệt chúng tôi, đáp lại cái nhìn lưu luyến của chúng tôi bằng một ánh mắt và một nụ cười nâng đỡ, động viên vô cùng ý nhị.

Nghĩ tới Bác, tôi nghĩ tới một vì sao sáng nhất lung linh tỏa ánh giữa bầu trời đầy sao. Vị anh hùng vĩ đại của nhân dân ta đã nhè nhẹ bước vào cõi bất diệt của tự hào dân tộc, nơi mà những vua Hùng, bà Trưng, bà Triệu, những anh hùng Ngô, Lý, Trần, Lê, Quang Trung đã đến trước Người. Cũng trong cõi ấy, chắc Người đã gặp các vĩ nhân của mọi thời đại, những người đã làm nên niềm tự hào của nhân loại.

Bác đã ra đi nhưng tôi đinh ninh Người còn sống mãi, Bác đi vào lòng của hàng triệu triệu người ở đây và khắp nơi.

(Trích từ sách: Bác Hồ với Bình Trị Thiên (tập II), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Ty Văn hóa - Thông tin Bình Thị Thiên, 1978).

Tâm Trang (tổng hợp)

Còn nữa

 

Mãi mãi không quên (Bích Thuận kể)

Hồ Chí Minh! Cha chúng ta về một ngày thu muôn ánh sao bay rợp thành đô!

Có lẽ chưa một lần nào trong đời, chúng tôi được hát  vui, hát với tất cả tâm hồn mình như cái ngày tháng 3-1950 ấy. Chúng tôi được chào đón Bác, Bác tới thăm các đại biểu về dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất.

Những gương mặt xanh xao vì sốt rét, vì những đêm nằm hầm bỗng rạng rỡ hồng hào, những đôi mắt sáng lên, không rời nhìn Bác, những đôi mắt hầu như không chớp. Bác đã đến thật rồi kìa! Nước da Bác rám hồng, vầng trán cao rộng của Bác còn đọng lấm tấm những giọt mồ hôi. Bác vừa vượt qua một chặng đường khá vất vả đến thăm chúng tôi.

Bác đây. Bộ quần áo lụa nhẹ màu nâu chân chất, chòm râu bạc phơ, gương mặt hiền từ, luôn nở nụ cười độ lượng trước những câu hỏi, những lời chào của lớp lớp đàn cháu gái.

Những chị cán bộ lãnh đạo từng trải, những chị cán bộ gan góc vùng sau lưng địch, những chị cán bộ vùng rẻo cao, trong phút giây đều quên hết nghi thức và tất cả bỗng hồn nhiên, bỗng như trẻ thơ trước mặt Bác.

Bác cháu quây quần tụ họp dưới bóng cây xanh mát rượi của rừng nứa, lúc những đốm nắng cuối xuân đang xao động.

Bác thân thiết hỏi thăm các đại biểu về dự Đại hội. Nam Bộ, Khu V, miền xuôi, miền núi, vùng tự do, vùng tạm bị địch chiếm, chúng tôi có cảm giác Bác đã hiểu tất cả. Tấm lòng những người dân vùng sau lưng địch luôn luôn hướng về kháng chiến, lòng dân vùng rẻo cao, sự hy sinh tận tụy của cán bộ từ cơ sở.

Cảnh sum họp dưới cánh rừng nứa buổi chiều hôm ấy thực sự đầm ấm, đầy tình thương yêu thân thiết của đại gia đình cách mạng. Bác nói chuyện với Đại hội, và rồi Bác cho phép các đại biểu được hỏi Bác, về việc gì cũng được, việc công cũng như việc tư.

Nhiều chị đã mạnh dạn hỏi Bác về những điều các chị chưa hiểu: Chuyện công tác, chuyện gia đình. Hội trường nhiều lần vang lên tiếng cười vui vẻ. Câu trả lời của Bác thường giản dị và đôi lúc dí dỏm.

Rồi chúng tôi được chụp ảnh chung với Bác. Cũng chưa bao giờ chị em lại háo hức đòi chụp ảnh đến thế.

Những đốm nắng trong cánh rừng nhạt dần. Bác sắp ra về. Lòng dạ chúng tôi nao lên. Bao giờ mới lại được gặp Bác lần thứ hai nữa? Kìa, Bác đang sửa soạn ra về, rõ ràng, dứt khoát như khi Bác đến. Hội trường sâu lắng một giây. Tất cả đang hướng lên, về phía Bác. Giọng Bác ấm áp:

"Bác chúc các cô ra về mạnh khỏe. Về địa phương, những chị em nào có thành tích, các cô nhớ gửi báo cáo lên cho Bác".

Những lời căn dặn của Bác vang vọng mãi trong tôi. Tôi suy nghĩ mãi "Chị em nào có thành tích, các cô nhớ gửi báo cáo lên cho Bác". Chị du kích đội Trưng Trắc, bà mẹ chiến sĩ Nam phần Bắc Ninh tôi được gặp những ngày theo bộ đội vào vùng sau lưng địch. "Vâng, thưa Bác, cháu sẽ cố gắng".

Những buổi tối mùa Hạ, dưới ánh đèn nhựa trám, tôi cố gắng viết về những trận đánh giặc bằng đòn gánh, bằng mưu trí của những cô gái từng trồng dâu nuôi tằm ở một làng ven sông Đuống. Tôi viết về lòng yêu nước, thương bộ đội của bà mẹ chỉ quen nghề quay tở, dệt cửi.

Mừng sinh nhật Bác 60 tuổi, tôi gửi thư lên, chúc thọ Bác và mạnh dạn gửi lên Bác những trang viết đầu tiên đó.

Tôi có ngờ đâu Bác cũng đọc những mẩu chuyện nhỏ ấy.

Một buổi sáng tháng 6, tôi vừa đi công tác về, các đồng chí trong cơ quan vui mừng báo tin cho tôi biết: "Có thư Bác gửi". Thư của Bác kèm theo một tấm Huy hiệu. Một tấm hình Bác mà đêm đêm ở rừng sâu Việt Bắc, dưới ánh đèn dầu, tôi thường soi vào lòng bàn tay mình để thấy Bác được rõ hơn, để mình tự nhủ mình phải làm việc tốt hơn, như  lời Bác dặn trong thư: "Bác khuyên cháu cố gắng để tiến bộ mãi".

Mùa Hè năm 1951, tôi đi theo một đơn vị quân y phục vụ chiến dịch Hà - Nam - Ninh. Tôi đi với các đoàn dân công, đi tới các đội điều trị. Và tôi viết về các chị dân công làm nhiệm vụ tiếp tế, tải thương, về các bà mẹ hết lòng phục vụ thương binh. Từ cuộc cách mạng, cuộc kháng chiến thành công do Bác cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo, đã nảy sinh biết bao người phụ nữ mới. Những người phụ nữ trung thành và tận tụy. Tôi phải viết về họ, và một lần nữa, tôi gửi lên Bác những mẩu chuyện tôi ghi chép trong chiến dịch.

Một buổi sáng mùa Đông, một món qùa bất ngờ nữa đến với tôi. Bác cho gọi tôi đến.  Bác cẩn thận dặn đồng chí Thắng trong đơn vị bảo vệ Bác, nhắc tôi ăn sáng và nắm thêm một nắm cơm ăn dọc đường. Nhưng vì quá mừng tôi chỉ ăn qua quít rồi vội theo anh đi ngay.

Bầu trời xanh của núi rừng Việt Bắc mở rộng trước mắt tôi. Ánh sáng mùa Đông hôm ấy sao ấm thế, cánh rừng sao đẹp thế, dòng suối sao trong thế. Chân tôi đi, đi mãi mà không mỏi. Hết cánh rừng này đến cánh rừng khác, hết dốc cao này đến một dốc cao khác. Chúng tôi đi một mạch không nghỉ, không ăn, không uống và đến chiều thì tới nơi Bác ở.

Tim tôi đập mạnh khi tôi bắt đầu được đặt chân lên con đường hàng ngày từng in dấu chân Bác. Con suối lớn trước cửa nơi nhà Bác ở. Và nhà Bác đây rồi. Thoạt tiên là một gian nhà bếp sáng sủa, sạch sẽ. Lên một khúc nữa là gian nhà nơi Bác ăn cơm, và cũng là phòng nghỉ của đơn vị bảo vệ. Cạnh đó là nhà khách.

Tôi nôn nóng được tới chào Bác, Bác đang làm việc. Mười ngón tay của Bác gõ giòn giã trên bàn máy chữ. Một mảng nắng chiều mùa Đông hắt lên vầng trán cao rộng của Bác, lên bộ quần áo nâu giản dị Bác đang mặc.

Tôi chạy vội lại bàn làm việc của Bác, tôi chào Bác mà hai mi mắt cứ nóng ran cả lên. Bác cười, hỏi tôi đi đường có nhớ mang cơm nắm đi ăn không, đi đường xa có mệt không? Tôi đáp "Thưa Bác, được đến thăm Bác, cháu mừng quá nên không mệt, không đói ạ". Tôi nhìn ngắm mãi ngôi nhà Bác ở, một nếp nhà thực giản dị. Giường Bác nằm nghỉ, cái bàn bên cửa sổ nơi Bác làm việc, mọi vật đều trật tự, ngăn nắp. Tôi nhìn và tôi thấy hầu như không có gì xa cách giữa ngôi nhà của một vị Chủ tịch nước và nhà của các cơ quan.

Bác hỏi tôi chuyện gia đình, chuyện công tác. Bác hỏi thăm một vài chị trong cơ quan tôi, đời sống của chúng tôi. Tôi nói với Bác những ngày chúng tôi đi chiến dịch, chuyện các bà mẹ, các chị em phục vụ chiến trường, các chiến sĩ bị thương. Bác nghe và đột nhiên Bác bảo: "Cô viết còn nhạt lắm". Bác gọi các anh ở Văn phòng lên, bảo các anh xếp chỗ nghỉ cho tôi.

Hôm sau, Bác giao cho tôi một việc: Đọc những số báo Bác đưa cho, báo Nhân đạo, báo Vì một nền hòa bình lâu dài, lấy ở trong đó những mẩu chuyện, những tin tức mình đang cần, ví dụ: Mẩu chuyện phản đối chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, tố cáo chế độ tư bản, đế quốc....

Bác lại hỏi tôi về những bài viết của C.B. đăng trong báo Nhân dân. Tôi thưa với Bác về cách viết của C.B. Bác gật đầu. Bác bảo: "Bây giờ cô cũng viết như thế cho Bác xem". Ở Văn phòng Bác, buổi sáng tôi đọc báo đến khoảng 10 giờ. Chiều và tối, cũng đọc báo, đọc những mẩu chuyện đánh máy bằng tiếng Pháp Bác đưa cho, toàn là chuyện đánh Pháp cả. Tôi nhớ nhất là chuyện "Chị Ba vườn chuối". Chị Ba đã chặt hết cây chuối trong vườn nhà để giúp bộ đội vượt sông. Giặc Pháp đến, tra hỏi chị, chị một mực không khai và chị đã hi sinh anh dũng ngay trong vườn chuối nhà chị. Trong thời gian ba ngày, tôi lượm nhặt tin tức và viết được năm bài báo ngắn gửi lên Bác.

Những bài viết của tôi năm ấy được Bác giữ lại, mỗi bài có đính theo bản góp ý chung cho cả bài, lại nêu từng câu, từng ý, câu này viết chưa ổn nên viết thế nào, vì sao phải viết như thế... Những bài báo ấy đến nay tôi vẫn còn nâng niu gìn giữ.

Tháng 5-1961, Bác đến thăm Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quân. Khi Bác ra về, tôi còn đứng trông theo Bác mãi.... Xe Bác đã chuyển bánh, bỗng Bác ra hiệu cho đồng chí lái xe dừng lại. Và Bác vẫy gọi tôi đến. Sung sướng, cảm động, tôi chạy vội tới chào Bác. Bác hỏi tôi về đời sống gia đình, về công tác. Khi biết tôi vẫn viết báo, Bác gật đầu cười vui vẻ.

Mỗi lần tới thăm Đại hội các nhà báo, Bác đều gọi các cháu gái viết báo lên ngồi hàng ghế đầu. Bác kể chuyện những năm Bác làm báo cho chúng tôi nghe.

Bác thường căn dặn chúng tôi phải viết cho hay, cho chân thực, cho sinh động, cho hùng hồn về những con người mới của thời đại ta, chế độ ta. Chúng tôi chưa làm được như Bác mong muốn.

Tình thương của Bác vẫn dẫn dắt chúng tôi vượt qua bao trở ngại mãi mãi tôi không bao giờ quên được.

(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975).

Niềm vinh dự lớn (Nguyễn Thị Khương kể)

Tại Đại hội anh hùng chiến sỹ thi đua toàn miền Bắc năm 1958, tôi được bầu là Anh hùng lao động, được Chính phủ và Quốc hội tặng Huân chương Lao động hạng Nhất và được gặp Bác Hồ. Hôm ấy, Bác đến, cả hội trường rộn lên vui mừng rồi lặng đi trong xúc động. Tôi không biết dùng lời nào để nói hết được tình cảm của tôi lúc ấy.

Thấy Bác hồng hào, khỏe mạnh, tôi mừng lắm. Giờ giải lao, đôi chân tôi như cái máy tự động đi lại chỗ bậc lên xuống, thầm nghĩ cứ đón Bác ở đây thế nào cũng được gặp. Quả nhiên, Bác đang nhẹ nhàng bước xuống gần tôi. Tôi cúi mặt không cho Bác thấy giọt nước mắt sung sướng cứ tự nhiên trào ra. Bác đã nhìn thấy tôi. Tôi nghe rất rõ tiếng Bác gọi: "A! Cô Khương", rồi Bác chìa tay bắt tay tôi và bảo tôi đi ra uống nước. Hai Bác cháu cùng ngồi và ăn chuối, uống nước, Bác hỏi chuyện:

- Cô có khỏe không?

- Dạ thưa Bác, cháu khỏe lắm ạ.

- Cô có mấy cháu rồi? Các cháu có ngoan không?

- Dạ thưa Bác, cháu có một con. Nó rất ngoan ạ.

Bác căn dặn:

- Xã của cô khá lắm. Cô về cố gắng cùng các đồng chí ở xã thúc đẩy phong trào tiến lên, đã tốt rồi thì làm tốt hơn nữa. Các cô, các chú được bầu là Anh hùng, Chiến sĩ rồi phải phát huy vai trò đầu tàu gương mẫu, không được tự kiêu, tự mãn. Nói phải làm và làm phải nói như cô là rất tốt. Nói không làm là nói suông, làm không nói là tự bó mình lại, làm thay quần chúng, không phát huy được vai trò đầu tàu.

Sau Hội nghị, Bác chụp ảnh chung với các Anh hùng, Chiến sĩ. Nhìn thấy tôi, Bác chìa tay vẫy:

- Còn cô Khương nữa, lại gần đây!

Tôi len tới, Bác cho tôi ngồi cạnh Bác. Chụp ảnh xong, Bác cho cả chúng tôi về nơi Bác ở dự buổi họp mặt liên hoan. Bác hỏi tôi:

- Cô ở Hòa Bình về đây dự Hội nghị có vui không? về, cô định thực hiện thế nào?

- Dạ thưa Bác, cháu vui và phấn khởi lắm, lòng dạ sáng ra nhiều, nhiều cái hay cái tốt quá nhưng cháu không tiếp thu được hết, chỉ nhớ những cái địa phương cháu có thể vận dụng được thôi, như: Ngâm giống ba sôi hai lạnh và làm xe giải phóng đôi vai...

Bác gật đầu, cười, nói:

- Cô cứ làm được từng đấy việc là tốt rồi.

Đoàn chúng tôi được sang thăm đất nước Trung Quốc. Trong thời gian ở Trung Quốc, chúng tôi đã được các đồng chí bạn đón tiếp nồng nhiệt và cho đi tham quan mười tỉnh. Tôi đã thất rất nhiều điều mới lạ, bổ ích. Trở về Hà Nội, chúng tôi lại được Bác cho gặp. Bác hỏi:

- Các cô các chú đi tham quan nước bạn có vui thích không? Mắt thấy tai nghe những điều tốt đẹp như thế nào?

Đồng chí Hồng Tiến, Trưởng đoàn đứng lên định báo cáo tình hình, nhưng Bác vẫy tay ra hiệu ngồi xuống.

- Chú thì chú biết rồi, Bác hỏi các cô các chú khác kia. - Nhìn thấy tôi Bác hỏi luôn:

- Cô Khương thấy thế nào, về địa phương có áp dụng được không?

- Dạ thưa Bác, cháu được Đảng, Chính phủ và Bác cho đi thăm nước bạn, lòng cháu vui lắm. Thành tích, kinh nghiệm của nước bạn có nhiều nhưng nhận thức của cháu có hạn.

Bác gật đầu:

- Cháu đi như thế là có kết quả tốt. Thành tích, kinh nghiệm của nước bạn có nhiều, thấy thành tích để ta tin tưởng, thấy kinh nghiệm để ta học tập, vận dụng nhưng không áp dụng máy móc, rập khuân tất cả kinh nghiệm của nước bạn vào hoàn cảnh của ta.

Muốn tiến kịp nước bạn, ta không nóng vội nhưng phải cố gắng nhiều. Các cháu là những người tiên tiến phải nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần tự lực cánh sinh, phát huy vai trò đầu tàu của mình hơn nữa.

Tôi ngồi ngắm nhìn mái tóc bạc phơ của Bác, kẹo bánh trước mắt còn nguyên không ăn cũng thấy ngon rồi. Thấy tôi không ăn, Bác đến gần hỏi:

- Sao cô Khương không ăn bánh kẹo?

- Dạ thưa Bác, cháu vui mừng quá....

Bác nói:

- Cô ăn đi, và có cháu nhỏ, lấy phần về cho cháu. - Bác gói kẹo thân mật đưa cho tôi:

- Cô đem về cho cháu, quà của Bác đấy.

Ra về, tôi chỉ muốn đi nhanh đem gói quà của Bác cho đứa con đầu lòng ở nhà và các cháu khác nữa. Anh em đi cùng thấy tôi có hân hạnh được Bác cho quà, ai cũng vui mừng. Tôi đã chia cho mỗi người vài cái. Chiếc kẹo của Bác đã thành món quà quý nhất đem về quê hương, ai cũng nâng niu, lòng vô cùng sung sướng. Còn một ít, tôi gói kỹ đem về cho con. Thấy tôi đi lâu về, con tôi vừa mừng vừa hờn dỗi, quay mặt đi khóc không cho tôi bế. Tôi nựng cháu: "Mẹ thương, mẹ nhớ con ngoan, con quý. Bác Hồ gửi kẹo cho con đây này!".

Đôi mắt cháu giương lên tròn xoe, vừa nũng nịu, vừa hớn hở vui mừng. Tôi đoán nó vui mừng vì lâu ngày không gặp lại tôi và vui mừng vì được Bác Hồ cho kẹo. Nó ăn một chiếc còn để dành, gặp ai nó cũng khoe "Bác Hồ cho kẹo".

Cho tới nay, tôi đã vinh dự được gặp Bác nhiều lần và mỗi lần gặp Bác, tôi vẫn có cảm tưởng như vừa được gặp Bác lần đầu, bùi ngùi xúc động không nói lên lời.

(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975).

Vinh hạnh lớn lao nhất của đời tôi (Lê Thị Hảo kể)

Là một đứa con của "miền Nam đi trước về sau", tôi có một lần được tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vinh hạnh lớn lao nhất của cả một đời người đã đến với tôi.

Hôm đó một số anh chị em chúng tôi đại diện cho Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình thành phố Huế được vào thăm Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại ngôi nhà đơn sơ của Thủ tướng cách Phủ Chủ tịch không xa.

Thủ tướng tiếp chúng tôi độ 15 phút thì Bác Hồ đến. Bác thật giản dị, nhẹ nhàng và tâm hồn chúng tôi ngập tràn một niềm vui lâng lâng tỏa ngát.

Bác đến! Điều thật lạ là tôi không ngỡ ngàng mà lại cảm thấy ngay một cái gì rất gần gũi, thân thương, rất quen thuộc với ánh mắt và nụ cười đầu tiên của Bác. Bác đã nhìn và đã cười với chúng tôi, những đứa con mới ở xa về, và tâm hồn chúng tôi lung linh ánh sáng như được Bác trao truyền.

Ở Bác tỏa ra một sự tươi tắn, mát mẻ, một niềm vui thường xuyên và một tình thương rộng lớn. Tôi hiểu rằng Bác thương yêu và Bác vui thích gặp những đứa con của miền Nam, nơi luôn luôn ở trong tim của Bác. Tôi lặng nhìn chòm râu bạc, đôi mắt sáng, nụ cười tươi mát đang hấp dẫn tôi đến mức tôi thật sự không còn để ý đến sự có mặt của những người chung quanh.

Bác bắt tay anh chị em chúng tôi rồi vui vẻ chỉ ghế mời chúng tôi ngồi. Bác hồn nhiên, cởi mở, chủ động và gần gũi với tất cả đàn con đang quây quần chung quanh Người. Vào câu chuyện, Bác nói lên một câu nói trang trọng đầy tình nghĩa. Nhìn Thủ tướng Phạm Văn Đồng rồi nhìn sang chúng tôi khắp lượt, Bác nói, giọng chậm rãi, ôn tồn, ấm áp:

- Hôm nay tôi và đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt 20 triệu đồng bào miền Bắc hoan nghênh các cô các chú trong Liên minh ra thăm miền Bắc.

Bác lần lượt hỏi thăm sức khỏe mỗi người chúng tôi. Người hỏi về chuyến đi từ trong vùng giải phóng miền Nam ra đến miền Bắc có an toàn không? Đi bằng phương tiện gì? Đường sá như thế nào? Ăn uống ra làm sao? Bác lại hỏi gia đình của mỗi chúng tôi hiện ở đâu? Có được an toàn không? Sinh sống làm ăn thế nào? Bác hỏi rất tỉ mỉ, rất thân tình. Chúng tôi không dám nói nhiều về bản thân nhưng khi nghe chúng tôi trả lời ngắn, Bác lại hỏi thêm một số chi tiết cho đầy đủ. Thấy tôi đeo kính cận thị Bác hỏi kính nặng mấy điốp. Rõ ràng là Người có sự quan tâm rất mực của một người cha hiền.

Bác hỏi chúng tôi rất kỹ về tình hình vùng giải phóng, vùng đô thị bị tạm chiếm. Nghe kể về Huế, Bác rất chăm chú, thỉnh thoảng Bác gợi lại vài kỷ niệm của thời thơ ấu, nhắc tới những nơi Bác đã từng sống qua: Trường Quốc học, thành nội, chợ Xép, quán Ao Hồ, cầu Tràng Tiền.... Bác hỏi ở Huế có những chén chè nho nhỏ để trên cái trẹt bán mỗi chén một tiền còn hay không? Bác nhắc tới tên vài đường phố cũ ở Huế nà thuở nhỏ Bác đi học ở đây thường qua lại. Trí nhớ của Bác thật dồi dào, Bác hồ hởi nhắc lạo tuổi trẻ của mình bên bờ sông Hương. Giọng Bác thực sự xúc động khi hỏi sông Hương hiện nay còn đẹp không? Đồng bào mình dưới ách Mỹ ngụy khổ đến mức nào? Câu nói dạt dào tình thương vô hạn đối với đồng bào miền Nam và gợi lên trong lòng chúng tôi một nỗi xốn sang căm thù da diết kẻ thù cướp nước và bán nước. Miền Nam! Miền Nam còn chưa giải phóng. Chúng tôi xót xa nghĩ tới miền Nam khi đang được ngồi dưới bầu trời miền Bắc, bên cạnh Cha già, hiện thân vĩ đại của độc lập, tự do.

Bác nói bằng lời văn giản dị, nôm na, ngắn gọn, cô đúc mà chúng tôi thấy thật là mới mẻ, nhẹ nhàng. Ở vùng tạm bị chiếm miền Nam, cả đến ngôn ngữ cũng bị vẩn đục, lai căng pha tạp. Những lời nói của Bác đối với tôi là cả một bài học lớn về tiếng nói, cách nói, cách dùng từ. Ngôn ngữ của Bác giàu hình tượng, sinh động như trong ca dao tục ngữ. Bác dùng chữ, đặt câu rất giản dị và chuẩn xác. Nếu có ai trong chúng tôi dùng chữ chưa được chuẩn, sử dụng từ Hán Việt nặng nề, phức tạp, không cần thiết thì Bác nhẹ nhàng vui vẻ chữa lại cho chúng tôi.

Qua cuộc nói chuyện, Bác đánh giá cao những hy sinh gian khổ, những sự tích anh hùng của đồngbào ta ở hai miền với một tấm lòng ưu ái đặc biệt dành cho miền Nam tiền tuyến đầu sóng ngọn gió. Bác nhắc nhở chúng tôi đức khiêm tốn và ý chí tiếp tục phấn đấu, đừng tự cao, tự mãn, Bác bảo chúng tôi:

- Giỏi thì có giỏi thật đấy nhưng cứ nói gì thì nói chứ đừng vội kết luận rằng dân tộc Việt Nam là nhất thế giới nhé

Mọi người chúng tôi lấy làm vui được nghe Bác truyền cho bài học khiêm tốn, giản dị mà sâu sắc ấy. Ở gần bên Bác, tôi vừa cảm thấy được động viên, cổ vũ khích lệ rất nhiều, đồng thời cũng cảm thấy mình chưa làm được bao nhiêu so với  yêu cầu của thực tế và lòng mong muốn của Bác.

Thời gian ở bên cạnh Bác trôi nhanh như một giấc mơ tuyệt đẹp. Ai cũng muốn nó kéo dài mãi mà lại không dám ngồi lâu vì sợ Bác mệt. Đến lúc những đứa con của Bác phải nghĩ đến bảo vệ sức khỏe cho Cha già của mình. Lòng đầy lưu luyến, chúng tôi nhìn nhau với ý định xin Bác cho ra về để Bác nghỉ ngơi.

Bác rất hiểu nỗi lòng chúng tôi lúc này và để tỏ lòng thương yêu của mình, Bác bảo chúng tôi ngồi lại với Bác mười lăm phút nữa. Bác bảo nhỏ vào tai đồng chí cần vụ, vài phút sau đồng chí ấy trở lại với một cái đồng hồ để bàn đã cũ (mà Bác vẫn thường dùng hàng ngày) và một chiếc phong bì lớn. Bác muốn tặng chúng tôi một tấm ảnh lớn để làm kỷ niệm. Trong ảnh, chúng tôi thấy Bác ngồi ở giữa, cười rất tươi, rất hiền, quây quần chung quanh là bảy, tám cháu thiếu nhi miền Nam, có nét mặt ngây thơ nhưng đều là dũng sĩ diệt Mỹ. Tất cả các cháu đều tỏ ra vui sướng được ở gần bên Bác.

Bác Hồ nhìn vào trong ảnh rồi nhìn một chị trong đoàn chúng tôi và nói với một giọng khoan thai đầy xúc động:

- Dân tộc ta đời đời ca ngợi và nhớ ơn những bà mẹ Việt Nam đã sinh ra những anh hùng dũng sĩ như thế này đây.

Chất trữ tình bình dị, hồn hậu mà tha thiết trong những câu nói của Bác làm cho mọi người ứ nước mắt. Bác đã nói lên những chân lý của lịch sử mà cũng là những tình cảm lớn trong lòng chúng tôi.

Bác đã nhắc tới người phụ nữ Việt Nam, nhưng chính bản thân Bác cũng có tấm lòng vĩ đại của người mẹ Việt Nam, suốt đời mình Bác đã hy sinh hạnh phúc gia đình, hạnh phúc cá nhân vì đại nghĩa dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân. Tấm lòng của Bác đối với miền Nam thể hiện qua tình thương của Bác đối với chúng tôi, làm cho tôi cảm thấy nhớ da diết những đồng bào, đồng chí, những người thân còn ở lại trong lòng miền Nam tạm thời bị Mỹ ngụy chiếm đóng. Bác thong thả đứng dậy âu yếm nhìn và chào mọi người rồi chống gậy đi ra. Bác khoan thai từ biệt chúng tôi, đáp lại cái nhìn lưu luyến của chúng tôi bằng một ánh mắt và một nụ cười nâng đỡ, động viên vô cùng ý nhị.

Nghĩ tới Bác, tôi nghĩ tới một vì sao sáng nhất lung linh tỏa ánh giữa bầu trời đầy sao. Vị anh hùng vĩ đại của nhân dân ta đã nhè nhẹ bước vào cõi bất diệt của tự hào dân tộc, nơi mà những vua Hùng, bà Trưng, bà Triệu, những anh hùng Ngô, Lý, Trần, Lê, Quang Trung đã đến trước Người. Cũng trong cõi ấy, chắc Người đã gặp các vĩ nhân của mọi thời đại, những người đã làm nên niềm tự hào của nhân loại.

Bác đã ra đi nhưng tôi đinh ninh Người còn sống mãi, Bác đi vào lòng của hàng triệu triệu người ở đây và khắp nơi.

(Trích từ sách: Bác Hồ với Bình Trị Thiên (tập II), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Ty Văn hóa - Thông tin Bình Thị Thiên, 1978).

Tâm Trang (tổng hợp)

Còn nữa

Bài viết khác: