Hệ thống Trợ năng

Chỉ mục bài viết

Nghề thầy giáo rất quan trọng, rất vẻ vang

 

Một buổi sáng mùa Thu năm 1946, giữa Thủ đô Hà Nội rợp bóng cờ sao, Bác Hồ đến thăm trường tôi, một trường nữ học sinh duy nhất ở Thủ đô.

Tôi quên sao được gương mặt hiền từ và giọng nói ấm áp của Bác. Tôi quên sao được giờ học tiếng Anh của lớp tôi, mà Bác đã vào dự. Tôi được cô giáo gọi lên đọc bài. Không hiểu vì vui sướng, cảm động hay vì quá mất bình tĩnh, tôi đã phát âm sai một vài chỗ. Thế rồi Bác từ từ đi lại phía tôi. Tự nhiên như một bà mẹ hiền âu yếm dạy con tập nói những tiếng nói bập bẹ đầu tiên, Bác đứng sát bên tôi đọc mẫu và nhẹ nhàng uốn nắn cho tôi đọc từng chữ một: “Hao-dơ” (house là cái nhà) cháu chú ý chữ “s”, là như chữ “d” trong tiếng Việt.

Tôi ngoan ngoãn đọc lại “hao-dơ” và Bác động viên ngay:

- Thế, cháu đọc thế mới đúng. Cháu đọc từ tiếp theo.

- “mân-th” (month là tháng).

- Chưa thật đúng. Cháu phải chú ý âm cuối của từ, đây là một loại “âm cổ” là chính chứ không phải “âm lưỡi”. Nếu phiên âm ra tiếng Việt của ta thì nó nửa là “th” và nửa là “ph”. Cháu nghe Bác đọc.

Thế rồi Bác đọc lại để tôi đọc theo cho đến khi tôi phát âm chính xác Bác mới thôi. Sau đó Bác âu yếm xoa đầu tôi và bảo: Bây giờ đã cách mạng rồi thì gái cũng như trai đều phải cố gắng học tập cháu nhé!

Tôi cảm động cúi xuống “Vâng ạ”.

Ôi! Diệu kỳ biết bao buổi đến thăm trường của Bác. Cử chỉ và lời nói giản dị ấy của Bác cũng như những cảm giác mới mẻ về đất nước trong những ngày tháng 8-1945 đã để lại những ấn tượng hết sức sâu sắc trong ký ức tuổi thơ của tôi.

Từ đó về sau, trong từng chặng đường, tôi luôn luôn cố gắng làm theo lời Bác. Và cũng qua từng chặng đường, tôi lại được nghe bạn bè kể thêm những mẩu chuyện về Bác hết sức lý thú.

Giờ đây, tôi đã có nghề, đất nước đang cần có thêm bàn tay khối óc của những đứa con thân yêu. Và cũng mấy năm nay, từ trên đất Pháp nhiều anh chị em trí thức đã trở về Tổ quốc sát cánh cùng nhân dân xây dựng đất nước...

Không đắn đo, suy nghĩ gì khác nữa. “Trở về”, tôi dứt khoát quyết định. Ngửng nhìn lên ảnh Bác, tôi có cảm tưởng như Bác đang mỉm cười bằng lòng với quyết định mới của đứa cháu thân yêu.

Thế là ba tháng sau khi nhận bằng Thạc sĩ toán học, tôi lên đường trở về đất nước, hành lý mang theo của tôi chỉ là hai chiếc vali đựng đầy sách vở cần thiết và một số quần áo thường dùng của hai mẹ con. Lòng thanh thản, tôi bước chân lên máy bay từ giã nước Pháp cổ kính trở về theo tiếng gọi của Tổ quốc, tiếng gọi của Bác Hồ.

Về nước, sau một tuần nghỉ ngơi và thăm hỏi bà con, tôi xin đến nhận công tác ngay ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đây là một trong những trường lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, một trường mà Bác đã trao nhiệm vụ là: ... “Phải biến trường này thành một trường mô phạm cho cả nước noi theo”.

Giữa một buổi sáng mùa Đông, trời hơi lạnh, vẫn trong bộ kaki vàng quen thuộc, Bác đã đến với chúng tôi.

Từ ngày về nước, tôi đã được một số lần gặp Bác trong các buổi chiêu đãi ở Câu lạc bộ quốc tế hoặc Câu lạc bộ Ba Đình. Mỗi lần gặp Bác tôi lại tưởng như mình vừa phát hiện thêm được một điều gì ở Bác mà trước đây tôi chưa hề biết hoặc biết chưa thật cụ thể. Lần này cũng thế, trong lúc Tổng thống Môđibô Câyta nói chuyện, một cán bộ của Bộ Ngoại giao rất giỏi tiếng Pháp đã được cử đến để phiên dịch. Đi giúp việc anh lại có thêm một người tốc ký giỏi. Khoảng bốn mươi phút đầu, chúng tôi thấy anh dịch rất tốt, nhưng sau đó phần vì Tổng thống nói một mạch quá dài mới dừng lại cho anh dịch, phần vì có lẽ thần kinh đã đôi chút căng thẳng cho nên có chỗ anh hơi lúng túng. Tự nhiên, trên hàng ghế đầu, tôi thấy Bác đứng dậy. Bác ghé sát bên tai anh nói nhỏ điều gì và từ lúc đó Bác trực tiếp dịch cho Tổng thống. Từ ngạc nhiên đến khâm phục, chúng tôi cũng tập trung toàn bộ trí lực của mình cố gắng nghe cả lời Tổng thống Câyta nói và lời dịch của Bác. Vẫn những mạch văn rất dài của Tổng thống, Bác dịch lại một cách rõ ràng, rành mạch từng câu. Tôi nhớ lại trước đây trong buổi chiêu đãi nhân dịp kỷ niệm Ngày 2-9-1960 tại Phủ Chủ tịch mà tôi được dự. Trước mắt cán bộ Việt Nam và đông đảo khách nước ngoài, Bác đã phát biểu bằng tiếng Việt và sau đó dịch luôn sang tiếng Nga, rồi tiếng Trung Quốc giữa niềm hân hoan của tất cả các bạn bè quốc tế đến dự.

Đã từ lâu, tôi được nghe nhiều đồng chí nói đến vốn ngoại ngữ phong phú của Bác. Ngày còn ở Pháp, tôi đã có dịp được đọc một số bài báo Bác viết trên tờ "Le Paria" (Người cùng khổ) và cuốn "Bản án chế độ thực dân Pháp" xuất bản ở Pari, một cuốn sách bìa trắng, in chữ xanh mà một kiều bào cất giữ được. Tôi đã có nhiều suy nghĩ về văn phong của Bác và đặc biệt là về vốn từ ngữ tiếng Pháp rất giàu có và độc đáo mà chính chúng tôi, những người đã sống trên đất Pháp, cũng phải ngạc nhiên đến khâm phục.

Cũng trong buổi đến thăm trường sáng hôm đó, Bác đã nói chuyện với anh chị em cán bộ và học sinh chúng tôi. Hội trường lớn tự nhiên hôm nay trở nên nhỏ bé và chật chội lạ.

Như người cha lâu ngày đi xa nay trở về nhà gặp lại những đứa con thân yêu, Bác hỏi han tình hình mấy năm qua kể từ ngày Bác đến thăm trường lần trước (năm 1961). Bác khen chúng tôi đã đạt được hai ưu điểm lớn. Một là "tinh thần khắc phục khó khăn làm tròn nhiệm vụ", hai là "Phong trào thi đua "hai tốt" ở đây làm khá". Tiếp đến, Bác kể cho chúng tôi nghe về thành tích của hai bạn giáo viên miền núi không quản khó khăn gian khổ, đã tận tình đem hết sức mình phục vụ con em các dân tộc ít người. Và Bác kết luận: Đây là những cô giáo, thầy giáo anh hùng.

Trở lại tình hình nhà trường, Bác cũng phê bình chúng tôi hai điểm về vệ sinh và về công tác trồng cây mà Bác đã nhắc nhở. Nhớ lại ngày Bác đến thăm trường hồi đó, mỗi một anh chị em chúng tôi đều không ai quên được tác phong quen thuộc của Bác.

Bước vào cổng trường Bác đã đi đến kiểm tra ngay bếp ăn và chỗ ở của học sinh... Đấy là lần Bác đến thăm trường mà không hề báo trước như lần này. Sáng hôm đó, thầy trò chúng tôi đều đang làm việc trên lớp, tự nhiên nghe tiếng reo to từ phía ngoài: Bác Hồ! Bác Hồ đến! Thế là không ai bảo ai, mọi người đều chạy nhanh về phía Bác. Đoàn người mỗi lúc một đông quây quần quanh Bác, Bác âu yếm giơ tay vẫy gọi chúng tôi. Chúng tôi vui mừng vì thấy Bác hồng hào, khỏe mạnh và đặc biệt là Bác đi bộ rất nhanh. Nhiều anh chị em phải chạy tắt qua các rặng cây đón từng quãng đường để được nhìn thấy Bác rõ hơn.

Bác tiếp tục đi kiểm tra các nơi, đến đâu Bác cũng có lời nhận xét và chỉ bảo cho chúng tôi hết sức tỉ mỉ. Chúng tôi còn nhớ khi đến cạnh một hố giải đã được xây tường cao, quét vôi trắng cẩn thận, Bác còn chỉ thêm: Nên trồng một hàng râm bụt phía ngoài nữa cho kín đáo.

... Về nghề nghiệp của chúng tôi, Bác ân cần chỉ bảo phải thật sự yêu nghề mình, thật sự yêu trường mình. Nhiều anh chị em chúng tôi hết sức xúc động khi nghe Bác nhắc nhở là người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù không được đăng tên tuổi trên báo, không được thưởng Huân chương, song những thầy giáo, cô giáo tốt là những anh hùng vô danh.

Bác đã hiểu được tâm tư của một số anh chị em học sinh chúng tôi khi bước chân qua ngưỡng cửa của Trường Sư phạm. Có anh học sinh đã ở năm thứ hai ngồi trên ghế nhà Trường Sư phạm mà vẫn mơ về Bách khoa, về Tổng hợp.

Bằng câu chuyện về hai giáo viên trẻ vùng rẻo cao và những ý kiến khẳng định về nghề dạy học Bác xác định lại cho anh chị em học sinh chúng tôi quan niệm về nghề nghiệp, về tiền đồ và ước mơ của tuổi trẻ.

Từ trên bục cao của Hội trường, Bác đưa mắt lướt nhanh trên những gương mặt tươi trẻ đang chăm chú hướng cả về phía Bác, háo hức đợi chờ và Bác đã kết luận là nghề thầy giáo rất quan trọng, rất vẻ vang. Ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo thì phải sửa chữa. Cả hội trường vang lên một tràng vỗ tay dài nói lên tất cả niềm hân hoan, phấn khởi của anh chị em chúng tôi. Bác cũng vỗ tay và âu yếm mỉm cười nhìn chúng tôi.

Buổi đến thăm trường năm ấy của Bác để lại trong chúng tôi những ấn tượng hết sức sâu sắc về vinh dự và trách nhiệm của mỗi cán bộ, giáo viên, và học sinh trong nhà Trường Sư phạm.

Sau đó, nhà trường đã phát động rầm rộ một phong trào thi đua sôi nổi chưa từng có thực hiện lời dạy của Bác Hồ, và mỗi một chúng tôi đều tự xây dựng kế hoạch phấn đấu của mình với tất cả tấm lòng kính mến và biết ơn sâu sắc đối với Bác.

Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1975

Bác Hồ đến Đại hội Phụ nữ

Vào một ngày mùa Đông năm 1950, Hội Liên hiệp phụ nữ Cứu quốc toàn quốc mở Đại hội, Đại biểu phụ nữ các liên khu, suốt từ Bắc đến Nam, miền xuôi, miền núi hăm hở băng rừng, lội suối trèo đèo, vượt qua các đồn bốt giặc… về Đại hội.

Đại hội tổ chức tại một điểm thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Lần Đại hội này, tôi được vinh dự đi trong đoàn đại biểu tỉnh Hà Giang thuộc Liên khu 10.

Mấy ngày Đại hội trời râm mát. Nhà hội trường được dựng trong rừng, núp dưới những tán cây rộng, kín đáo. Trong hội trường, các đoàn đại biểu say sưa báo cáo thành tích và suy nghĩ đóng góp ý kiến với Đại hội.

Bỗng một hôm trời hửng nắng. Sắc nắng vàng phơn phớt. Bầu trời trong xanh biêng biếc. Những đám mây xốp trắng bồng bềnh lờ lững trên nền trời. Trong tiết trời mát mẻ chợt có tiếng reo:

- Bác đến! Bác Hồ đến! Bác Hồ muôn năm!...

Cả hội trường dậy lên tiếng vỗ tay, tiếng cười, tiếng reo vui vang cả khu rừng. Các đại biểu đều đứng dậy, hàng trăm con mắt tươi cười nhìn về phía cửa - nơi Bác vào. Những gương mặt hân hoan rạng rỡ. Đại biểu ngồi ở phía dưới hội trường nhích dần lên để được trông rõ Bác. Tôi ngồi ở hàng ghế những đại biểu được biểu dương của Đại hội nên thấy Bác rất rõ. Tôi đứng ngây người nhìn Bác, chốc chốc kêu lên: “Bác! Ôi Bác!” … lòng rộn ràng sung sướng. Thật có niềm vui nào hơn niềm vui tôi được gặp Bác như thế này?

Bác tươi cười bước vào hội trường. Bác đi đôi dép cao su, mặc quần âu, áo bốn túi bằng vải kaki xanh nhẹ đã bạc màu. Có nhiều anh, nhiều chị đi sau Bác, nhưng giữa bầu không khí bấy giờ, tôi không nhớ rõ là có những ai. Bác vẫy tay chào mọi người. Dáng đi của Bác nhanh nhẹn. Đôi mắt Bác sáng và tinh lạ thường. Hội trường vẫn vang lên những tràng pháo tay và những tiếng gọi thân thương”

- Bác! Bác Hồ!...

Bác đi vào ngồi ở hàng ghế giữa trên cùng. Bác quay mặt xuống phía hội trường hỏi:

- Có đại biểu miền núi không? Các cô miền núi ở đâu?

- Thưa Bác có ạ! Thưa Bác đây ạ!

Nhiều chị thưa và trỏ vào tôi để giới thiệu với Bác. Các chị kéo tôi lên ngồi gần Bác.Vài chị khôn khéo tự khai là đại biểu miền núi và nhanh nhẹn ngồi gần tôi để trông thấy Bác được rõ hơn. Tôi đang bối rối thì vừa lúc Bác bảo:

- Cô là đại biểu miền núi thì lên đây.

Bác vừa nói vừa chỉ chỗ cho tôi ngồi. Tôi rất hồi hộp nhưng được Bác khuyến khích lại được các chị ủng hộ, tôi bước lên ngồi gần Bác, Bác hỏi:

- Cô ở đâu?

- Thưa Bác, cháu là đại biểu Hà Giang ạ.

- Dân tộc gì?

- Cháu dân tộc Tày ạ! - tôi thưa.

Bác gật đầu, gương mặt Bác rất vui. Bác hỏi tiếp:

- Phong trào phụ nữ trên ấy thế nào?

- Thưa Bác, phong trào phụ nữ ở Hà Giang mới phát triển được ở thị xã và ba huyện là Bắc Quang, Vị Xuyên và Hoàng Su Phì ạ!

Bác khen thế là tốt và khuyên cần cố gắng phát triển thêm các huyện khác; chú ý phát triển đối với chị em vùng cao, chị em là dân tộc ít người. Xong Bác hỏi:

- Chị em làm những việc gì?

- Thưa Bác, chúng cháu vận động chị em sản xuất, ủng hộ bộ đội, đóng góp lương thực cho Nhà nước; giáo dục chị em đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau…

Tôi trả lời được trôi chảy. Bác cười khen ngợi. Xong Bác nói chuyện với chúng tôi. Bác nói ngắn gọn, giọng rõ ràng, lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ hiểu. Bác biểu dương, động viên Đại hội. Bác nói cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp của toàn Đảng toàn dân ta đã thu nhiều thắng lợi. Chị em phụ nữ các dân tộc đã làm được nhiều việc, góp phần quan trọng cho cuộc kháng chiến. Muốn cho cuộc kháng chiến mau đến thắng lợi và thắng lợi to lớn hơn, chị em phải sản xuất giỏi. Bác khuyên chị em chúng tôi làm tốt công tác phụ nữ, vận động chị em các dân tộc thi đua tốt. Bác hỏi:

- Chị em có làm được như thế không?

- Thưa Bác có ạ! Thưa Bác có ạ…

Cả hội trường vang lên lời đáp. Bác cười. Nụ cười của người cha, ngọt ngào và phúc hậu. Bác nhìn chị em với đôi mắt trìu mến và yêu thương. Bác gần gũi với mọi người quá. Các chị miền Nam, miền Bắc, miền núi, miền xuôi chưa được gặp Bác, lần này được trông thấy Bác, chắc thỏa lòng bao ngày mong ước. Tôi đã được gặp Bác hai lần: Lần đầu được đến thăm Bác tại một ngôi nhà sàn ở Khuối Lịch - Tân Trào. Lần ấy Bác bị mệt. Lần thứ hai tại Vườn hoa Ba Đình vào Ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945. Bác đứng trên Lễ đài đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Giọng Bác ấm áp truyền đi khắp nơi. Bác đem niềm vui lớn đến mọi miền của đất nước. Lần này tôi thấy Bác khỏe hơn, da dẻ hồng hào. Nhưng tóc Bác đã điểm nhiều sợi bạc trắng. Tôi chạnh lòng: “Ôi Bác mình đã cao tuổi rồi!”. Càng nghĩ về Bác, tôi càng thương kính Bác. Bác là niềm tin, là ánh sáng soi đường cho chị em phụ nữ các dân tộc.

Tôi mãi ngồi suy nghĩ về Bác, hội trường dậy lên những tràng pháo tay. Giật mình tôi ngước mắt nhìn lên thì Bác đã bước ra ngoài hội trường cùng các đoàn đại biểu chụp ảnh lưu niệm. Tôi sung sướng cùng đoàn đại biểu Hà Giang được chụp ảnh với Bác. Chụp ảnh xong, Bác đi thăm chỗ ở, nhà ăn của đại biểu.

Bác đến Đại hội Phụ nữ ngày ấy chỉ trong một thời gian rất ngắn, nhưng Bác đã để lại tình thương yêu của lãnh tụ đối với chị em phụ nữ cả nước. Bác bận trăm công nghìn việc, nhưng Bác vẫn quan tâm, lo lắng đến phong trào phụ nữ. Bác động viên Đại hội là làm tốt công tác phụ nữ.

Bông hồng của Bác

Nxb Phụ nữ, 1985, trang 65-69

Những kỷ niệm sâu đậm nhất

Năm 1965, bắt đầu thời kỳ chiến tranh phá hoại của Giônxơn, tôi (Hoàng Thị Mễ) về công tác ở Vĩnh Linh, làm Trưởng ban kiểm tra của Đảng trong khu vực và được cử đi dự hội nghị tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc.

Lần này, đến thăm hội nghị, Bác mặc một bộ ka ki giản dị. Trông người vẫn khoẻ khoắn, nhanh nhẹn. Tôi rất mừng. Bác huấn thị cho chúng tôi nhiều điều hết sức quý báu về công tác kiểm tra, về đạo đức, phẩm chất của người cộng sản. Bác dặn đi dặn lại, đại ý: Công tác kiểm tra có quan hệ đến sinh mệnh của từng người đảng viên. Làm công tác kiểm tra tốt thì có lợi cho Đảng, có lợi cho mỗi đồng chí của ta. Bác nhắc nhở các đại biểu nữ càng phải đi sâu kiểm tra, bảo đảm quyền lợi cho đảng viên phụ nữ. Chúng tôi ghi tạc những lời Bác dạy. Làm công tác kiểm tra không được thành kiến, phải có lượng khoan hồng, đồng thời cần cứng rắn về nguyên tắc. Những lời dạy của Bác thật là quý báu cho chúng tôi và cho đất Vĩnh Linh nóng bỏng lửa đạn quân thù. Ngay từ đầu Bác đã hết sức quan tâm đến mảnh đất này, Bác rất chú ý đến các cháu thiếu nhi và chị em phụ nữ Vĩnh Linh, Bác dặn: Trong cuộc chiến đấu ác liệt này, các cháu Vĩnh Linh là những hạt giống quý, những mầm non xanh tươi, phải được giữ gìn sao cho mầm non đó cứ tươi tốt lên, dù trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào. Bác chỉ thị: Phải sơ tán hết các cháu, không được để cháu nào bị địch giết hại ở Vĩnh Linh. Ngày Tết sắp đến, Bác nhắc các tỉnh phải gói bánh chưng gửi cho các cháu. Riêng Bác, Bác hay gửi bánh kẹo cho các cháu Vĩnh Linh. Cho đến giờ các cháu vẫn nhớ và nhắc đến “Quà Bác Hồ”. Thỉnh thoảng Bác lại hỏi thăm đồng bào và phụ nữ Vĩnh Linh có khoẻ mạnh không, sản xuất chiến đấu và học tập ra sao?

Năm 1968, địch buộc phải ngừng bắn, Bác chỉ thị ngay phải tiếp tế khẩn trương cho Vĩnh Linh, chủ yếu là đường, vải, thuốc. Các xe tải phải chuyên chở cho Vĩnh Linh, Cồn Cỏ và phải coi đây là một công tác rất quan trọng. Hồi đó tôi là Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Vĩnh Linh, được phụ trách phân phối hàng về các xã. Tôi đã chấp hành nghiêm chỉnh lời Bác dạy. Việc phân phối được bảo đảm công bằng, hợp lý, chú ý các cháu mồ côi, các cụ già, bà mẹ các thương binh, bệnh binh…

Nhận được quà Bác cho, đồng bào Vĩnh Linh vô cùng hồ hởi bảo nhau: Chúng ta phải làm gì để tỏ lòng biết ơn Bác.

Riêng tôi, lời dạy của Bác luôn là nguồn khuyến khích, động viên lớn nhất. Nhớ lại những lời dạy bảo của Bác về phẩm chất của người đảng viên, người cán bộ phải hết lòng vì nhân dân phục vụ, lại nghĩ tới tình thương yêu của Bác đối với nhân dân Vĩnh Linh như biển cả, tôi thấy mình có thêm sức mạnh, cùng với anh chị em dân quân, du kích làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975

Từ kẻ “Xướng ca vô loài” đến người “kỹ sư tâm hồn”

            …. Hạnh phúc lớn lao nhất của đời tôi, cái áng hương trong tâm trí tôi mãi mãi không bao giờ phai nhạt, là tôi đã được gặp Bác Hồ! Tên Bác đã làm rung động hàng triệu triệu con tim. Ngày tạm biệt miền Nam, lên đường tập kết, bà con, cô bác giao cho tôi một nhiệm vụ, đơn giản mà rất thiêng liêng: “Có gặp Bác Hồ thì thưa giùm với Bác rằng bà con trong này ngày đêm trông Bác về thăm!". Tuy gật đầu lia lịa sẵn sàng nhận lời, nhưng tôi vẫn thầm nhủ rằng không dễ gì có được vinh dự ấy.

Vậy mà tôi lại được gặp Bác! Năm 1954, đoàn Tuồng khu Năm được vào Phủ Chủ tịch, diễn tuồngChị Ngộ.Anh chị em trong đoàn ai cũng náo nức bồn chồn, nguyện đem hết sức mình diễn cho Trung ương, cho Bác xem. Đứng trên sân khấu, tôi lách nhẹ tâm màn nhung, nhìn ra qua kẽ hở: Bác Hồ! Đó, Bác ngồi đó! Bận quần nâu giản dị, ung dung thanh thản, hiền cách chi là hiền! Tôi tưởng như thưở nào nhìn mình đương đóng vai nường Xuân Hương mà gặp được Tiên ông ban phép thần để có sức mạnh xua tan quân giặc. Rồi chẳng hiểu sao, tôi thấy rào rào trong tim mạch và nước mắt trào ra lúc nào tôi đâu có biết!

Khi diễn lớp chị Ngộ bị giặc bắt buộc phải ôm đầu anh Tài quăng xuống cống, tôi nhìn thấy Bác chống tay lên cằm nghiêng đầu cúi xuống. Tôi lo lo. Đến khi buông màn kết thúc, Bác nắm tay chúng tôi động viên, cổ vũ, đồng chí Trường Chinh mới cho biết là xem lớp đó, Bác nói với các đồng chí ngồi bên rằng: "Thấy giặc quăng đầu đồng chí mình như vậy, Bác đau nhói trong tim, chịu không nổi!". Lời Bác nói đã làm chúng tôi giật mình nhìn kỹ lại, khiến ai cũng ghê sợ lớp tuồng đó. Bác đã thức dậy trong chúng tôi, đã dạy chúng tôi một cảm xúc thẩm mỹ mới. Từ ấy không ai có thể diễn nổi lớp đó nữa, và cũng từ ấy lớp đó được cắt bỏ.

Qua năm 1959, chúng tôi lại được Bác gọi lên lần nữa. Lần này ông Tảo và tôi diễn lớp Trại Ba níu chồng là Địch Thanh. Theo lời đồng chí Lê Văn Hiến kể lại, thì Bác thích lớp tuồng này lắm. Diễn xong, tôi được nắm tay Bác và được nghe lời Bác dạy. Tôi quên sao được cái nhìn trìu mến như cha nhìn con, tiếng nói đượm hơi ấm tình thương của Bác: "Nghệ thuật của cha ông để lại hay lắm, tốt lắm! Phải giữ gìn cho được. Nhưng chớ có gieo vừng ra ngô!".

Có lần Bác đến khu văn công thăm chúng tôi bất ngờ đến mức chẳng ai kịp mở cửa ra đón Bác vào nhà. Bác phải ngồi ngay ở bậc thềm, chờ chúng tôi y như cha mẹ đến nhà chờ lũ con cháu. Chúng tôi đổ ra quây quần bên Bác, một chú lùn của đoàn xiếc cũng lỏm thỏm chạy đến thật nhanh để được kề sát bên Bác. Chẳng biết chú thích thú mê mẩn đến thế nào mà chú sờ hết tay chân đến đầu Bác, rồi còn kéo những sợi râu của Bác như đùa nghịch. Thế mà Bác vẫn ấm giọng từ tốn nói đùa:

 - Đừng kéo đứt râu Bác! Một sợi râu một xâu bánh!

Chúng tôi cười ồ lên một lượt, vui cái hồn nhiên, nhân hậu từ con người Bác toả ra. Cũng có lần Bác đến mang theo cả kẹo, già trẻ xúm đông quá, ai cũng chìa tay ra chờ Bác chia kẹo cho mình. Bác nói:... Già thì một, trẻ ăn hai, bé ăn ba bốn. Cứ vậy, Bác phân phát hết cả túi kẹo.

Hôm ấy, tôi được hai cái, và có cháu được đến cả nắm.

Lại có năm, mồng hai Tết, Bác đến mà cả khu văn công vắng ngắt. Thơ thẩn dạo quanh chẳng gặp ai, nghe tiếng nhị réo rắt từ trong một căn nhà lá dội ra, Bác lần bước tới. Vào nhà, Bác đã đứng sát bên cạnh anh Phát đang kéo nhị mà anh chẳng hay biết gì. Bác lên tiếng:

- Hay quá! Chà! chà!

Anh Phát vẫn làm thinh, Bác liền tiếp:  Nghệ sĩ say sưa quá hè!

Tưởng đâu bè bạn đến đùa nghịch, anh Phát xẵng giọng: Đi đi, chỉ được cái tổ phá quấy người ta!

Bác lại vỗ vai anh như muốn báo cho anh biết là Bác đến thăm. Không ngờ anh vẫn mải mê vào đàn, gạt bàn tay rồi kêu:  Khổ quá, quấy mãi thế!

Bác liền quay người đứng trước mặt anh và cúi xuống hỏi: Chỉ có mình chú ở nhà thôi?

Anh liền ngửng nhìn lên, thình lình quăng cây nhị đi, rồi reo tướng như la làng: Bác! Trời ơi! Bác!

Nghe tiếng anh la, tôi mới lật đật chạy sang ôm chầm lấy Bác, nước mắt cứ trào ra. Thế đấy, Bác đã đến với chúng tôi và chúng tôi đến với Bác như thế đấy, không lần nào gặp Bác mà tôi nín được nước mắt.

Tôi khóc vì tình thương của Bác quá lớn; đó cũng là những giọt nước mắt tiễn đưa cái kiếp “xướng ca vô loài” thời nô lệ, để đón nhận cái vinh quang được làm người nghệ sĩ cách mạng, người kỹ sư tâm hồn mà Đảng đã giao cho…

Trích theo sáchNgười là Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995

Tiếng hát bay xa

... Ngày Thủ đô mới được giải phóng, tôi còn ở Đội thiếu nhi, tôi rất mê hát. Tôi đã đoạt giải nhất hai năm liền trong các cuộc thi “Tiếng hát thiếu nhi”. Một lần chúng tôi biểu diễn ở Ấu-Trĩ-Viên, sau này là Câu lạc bộ thiếu niên, đã được Bác Hồ đến xem. Bác khen và thưởng cho chúng tôi kẹo bánh. Chúng tôi ríu rít vây quanh Bác. Bác thương yêu chúng tôi như một người ông hiền từ đối với đàn cháu nhỏ. Đó là lần đầu tiên tôi được ở gần Bác Hồ. Sau đó tôi còn có dịp cùng các bạn đến vui chơi với Bác ở Phủ Chủ tịch nhân những Ngày Tết thiếu nhi 1-6 hay Trung thu.

Tôi còn nhớ Trung thu năm 1957, 1.000 thiếu nhi Thủ đô đã được đến Phủ Chủ tịch vui Tết trông trăng với Bác Hồ. Chúng tôi múa, chúng tôi hát, tham dự các trò chơi trong ánh đèn màu lung linh. Hôm đó Bác nói với chúng tôi:

- Bác căn dặn các cháu hãy cố gắng học tập tốt hơn nữa, phải biết tôn trọng kỷ luật của trường, của đội thiếu niên, chú ý đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, hăng hái lao động tập thể, nhắc nhau tránh xem tiểu thuyết nhảm nhí vừa mất thì giờ, vừa có hại...

- Nhớ lời Bác, tôi gắng học chăm và càng say mê tập hát. Năm 17 tuổi, tôi vào học ở trường nhạc. Tốt nghiệp, tôi về công tác ở Đoàn Ca múa nhân dân Trung ương.

Tháng 3-1959, chúng tôi được vào biểu diễn ở Phủ Chủ tịch trong dịp Bác Hồ đón tiếp Tổng thống Ấn Độ Praxát. Bác khen ngợi và nhắc nhủ chúng tôi cố gắng trau dồi nghệ thuật để giới thiệu nền nghệ thuật dân tộc ta ra thế giới.

Chất giọng của tôi phù hợp với những bài dân ca hoặc những ca khúc có âm điệu dân ca. Bài thi tốt nghiệp của tôi là bàiTrăng sáng đôi miềnLời ca gửi noọng. Lời dặn dò của Bác giúp tôi thêm yên tâm đi theo hướng này. Tôi hát cò lả, quan họ và nhiều làn điệu dân ca khác. Bài “Người ở đừng về”, cải biên dân ca quan họ, tôi đã hát nhiều lần, được coi là có khám phá sáng tạo. Bài hát nhanh chóng chiếm được cảm tình của người nghe, có chỗ đứng trong các chương trình biểu diễn của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp cũng như nghiệp dư. 

Năm 1969, chúng tôi đi biểu diễn một chuyến dài ngày ở Pháp, Italia, Angiêri, Liên Xô, Trung Quốc, giới thiệu nền ca múa nhạc dân tộc của ta. Ở đâu đoàn ta cũng được hoan nghênh nhiệt liệt, nhất là ở Italia, một đất nước còn ít nhiều xa lạ với ta lúc đó. Mỗi tiết mục hay của đoàn trình diễn đều được khen ngợi bằng hàng tràng vỗ tay sôi nổi, kéo dài tưởng như đến vỡ nhà hát, trên các hàng ghế lại xuất hiện những lá cờ đỏ sao vàng vẫy vẫy cùng với các tiếng hô đều nhịp:

- Việt Nam! Hồ Chí Minh! Hồ - Hồ - Hồ Chí Minh!

Chúng tôi biết, chúng tôi được hoan nghênh như vậy không phải chỉ là vì tài nghệ của mỗi người mà chính là vì có cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta, chính vì có Bác Hồ, một lãnh tụ kiệt xuất mà thế giới hằng ngưỡng mộ, đã đem lại niềm vinh quang cho mỗi người chúng tôi.

Tháng 7, về nước, chúng tôi được tin sẽ đến báo cáo với Bác về kết quả chuyến đi biểu diễn vừa rồi. Mọi người đều mừng rỡ muốn kể lại thật tỉ mỉ với Bác về sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân ta, về tình cảm của nhân dân các nước với Bác. Chúng tôi không khỏi bồi hồi lo lắng vì thấy Bác đã yếu đi nhiều, càng thấy thương Bác vẫn vất vả lo toan việc nước chưa được một phút nghỉ ngơi. Nhưng Bác dáng vẫn nhanh nhẹn, mắt vẫn sáng ngời đôn hậu, lời nói vẫn rành rọt, vui tươi hóm hỉnh. Vẫn như những lần gặp trước, Bác chủ động, ân cần thăm hỏi chúng tôi. Chúng tôi lại được quây quần quanh Bác. Một đồng chí trong đoàn nói với Bác, ở Angiêri, ở Italia mỗi lần tiết mục của ta hay, họ vỗ tay đến vỡ nhà hát và hô tên Bác kéo dài, chúng cháu không sao nén được sung sướng, tự hào.

Bác hỏi lại: Được khen như thế có phổng mũi không?

Chúng tôi đều cười vui vẻ và biết rằng đó là Bác có ý nhắc nhở chúng tôi đừng có chủ quan, tự mãn. Bác chuyện trò với mọi người và tự tay tặng thưởng Huy hiệu Bác Hồ cho một số anh chị em trong đoàn. Tôi sung sướng được nhận phần thưởng vinh dự này. Lòng bồi hồi xúc động, tôi tự thầm hứa: Cháu nhất định phải cố gắng hơn nữa để đáp lại tấm lòng thương yêu của Bác.

Chúng tôi không ai ngờ rằng lần gặp Bác đó lại là lần cuối cùng. Tin Bác qua đời đột ngột đến với tôi chưa đầy hai tháng sau. Ôi! Đau thương biết chừng nào. Tôi đã khóc thực sự trong những ngày tang lễ Bác. Phải làm gì trong những ngày đau thương này để đền đáp công ơn của Bác? Bài hátTrông cây lại nhớ đến Ngườicủa nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã đến với tôi. Tôi miệt mài tập một mình, vừa hát vừa cố cầm cho không chảy nước mắt. Hôm trình bày trước các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi tự nhắc mình phải thật bình tĩnh.Trông cây tôi lại nhớ tới Người... - tôi hát. Làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh ấy cuốn hút tôi nhớ lại hình bóng Bác. Cả hội trường lặng đi, im phăng phắc.

Mắt tôi tự nhiên nhòe đi. Tôi thoáng nghĩ không được khóc. Nhưng nước mắt tôi đã ứa ra, giọng tôi nghẹn lại. Trong óc tôi bỗng vút qua hình ảnh Bác những lần tôi được gặp, Bác cho tôi kẹo... xoa đầu tôi... ánh đèn sân khấu rực rỡ, lung linh bóng cờ Tổ quốc... những tiếng hô Hồ Chí Minh kéo dài... Lần đầu tiên tôi biểu diễn bị ngắt lại ở giữa chừng. Tôi thoáng thấy các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và nhiều các đồng chí lãnh đạo khác rút khăn lau nước  mắt. Phải một lát sau tôi mới hát tiếp được...

Năm tháng qua đi, là một nghệ sĩ, tôi đã đi phục vụ đồng bào, chiến sĩ, ở ngoài mặt trận, nơi hậu phương, nhà máy, ruộng đồng không quản ngại. Nhớ mãi lời Bác dặn, hãy mang tiếng hát đến với đồng bào, với các chiến sĩ. Chính Bác đã chắp cánh cho tiếng hát của tôi không ngừng bay xa…

Trích theo sách: Bác Hồ với Ba Đình,

Ban Chấp hành Đảng bộ

Đảng Cộng sản Việt Nam Quận Ba Đình, Hà Nội, 1986

Còn nữa

Huyền Trang (tổng hợp)

Bài viết khác: