Hệ thống Trợ năng

Chỉ mục bài viết

 

Để nhanh chóng trở về đội ngũ

Một đêm đầu tháng 3-1969, đồng chí trưởng K. cho biết, sáng mai tôi sẽ đi công tác đặc biệt. Thấy tôi bối rối, chú rỉ tai nói nhỏ: “Có thể cháu được gặp Bác đó, nhưng phải giữ bí mật”. Ôi, tôi sung sướng quá. Nhưng đây mới chỉ là “có thể”, tôi không thể tin rằng sự thật ấy lại đến nhanh chóng như vậy. Đêm đó, tôi về chọn trong vali tìm một bộ quần áo để mặc. Lúc đầu tôi định chọn bộ quân giải phóng, nhưng rồi tôi lại lấy bộ quần áo bà ba tôi mang từ miền Nam ra gấp ép lại dưới gối để sáng mai mặc cho thẳng.

Cả đêm đó tôi không sao ngủ được... Tôi nhớ lại những ngày ở miền Nam... Những năm đó chúng tôi nhớ Bác da diết. Ở nhà mẹ tôi có một tấm hình của Bác, mẹ tôi giấu kỹ lắm, chỉ đến ngày Tết và Ngày sinh nhật Bác mới dám đem vào buồng cho cả nhà xem. Riêng tôi, tôi được một chú cán bộ giải phóng cho một tờ bạc năm đồng của miền Bắc có in hình Bác. Để nguyên cả tờ bạc to quá, tôi cắt riêng hình Bác. Hình ảnh đó của Bác tôi mang luôn bên mình. Nhiều bữa, giữa trận chiến đấu chống địch càn quét, chị em du kích chúng tôi chuyền tay nhau ngắm nghía hình Bác. Tôi nhớ, sau Tết năm 1967, hôm đó chúng tôi bố trí đánh trả bọn “bình định”. Ngồi trong chiến hào H. bảo tôi đưa hình Bác cho H. coi. Cầm hình Bác, H. ngắm nghía mãi rồi khe khẽ ngâm bốn câu thơ của Bác:

"Xuân về xin có một bài ca,
Gửi chúc đồng bào cả nước ta:
Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi,
Tin mừng thắng trận nở như hoa!".

Bỗng H. nói to:

- Tụi bay ơi! Trận này ta phải làm ăn ngon để báo tin mừng ra Bác Hồ nghen!

Và trận đó chúng tôi thắng rất vẻ vang, đánh lui cả tiểu đoàn địch.

Cuối năm ấy, chẳng may tôi bị địch bắt, chúng đưa về nhà lao của tỉnh tra tấn hết sức dã man. Thấy tôi vẫn không khai, chúng gọi bọn ác ôn ở quê tôi lên. Thằng ác ôn nói:

- Con nhỏ này thờ phụng ông Hồ lắm đó!

- À, tao đánh cho mày phải chán thờ ông Hồ của mày mới thôi.

Chúng lại đánh. Thấy đánh, tra tấn bằng các nhục hình không kết quả, chúng đem tôi ra chặt bớt một chân... Tôi mê man mất mấy ngày vì cơn đau và sốt do bị chặt mất một chân. Nhưng khi tỉnh lại tôi nghĩ:“Còn con mắt là còn thấy được Bác Hồ, mất một chân cũng chưa phải nằm liệt một chỗ, không sợ...”.

Trong những năm đau thương ấy, chúng tôi thương nhớ Bác biết kể vào đâu cho vừa. Bởi vậy cho nên khi chiếc ô tô đỗ xịch trong vườn Chủ tịch Phủ tôi vẫn chưa tin rằng mình đi gặp Bác. Một đồng chí đưa tôi vào căn phòng nhỏ có một chiếc bàn gỗ và ba chiếc ghế tựa. Đồng chí cán bộ (sau này tôi biết đó là chú Vũ Kỳ, Thư ký của Bác) mời tôi ngồi và vui vẻ hỏi tôi:

- Cháu có biết hôm nay đến đây để làm gì không?

- Cháu chưa biết chi cả! Tôi lúng túng đáp.

Chú Kỳ lại cười, tôi nhìn trong cái cười đó rất nhiều niềm vui. Chú Kỳ đứng dậy giơ hai ngón tay ra và nói:

- Cháu ngồi đây, hai phút nữa Bác Hồ sẽ ra gặp!

Nghe câu nói đó, tự nhiên trống ngực tôi đập mạnh, các mạch máu chạy rần rật khắp người, tôi chống nạng đứng dậy nhìn ra phía cửa thấp thỏm. Căn phòng yên tĩnh, tôi lắng tai nghe tiếng chân bên ngoài nhưng chỉ nghe thấy tiếng tim mình đập. Bỗng, một hồi chuông reo cắt đứt những ý nghĩ lung tung của tôi. Bác Hồ chống nhẹ chiếc can mây bước vào. Thấy Bác, quên bẵng mình chỉ còn một chân, tôi bỏ cả nạng chạy lại Bác. Thấy tôi chệnh choạng, Bác bước lên, tôi sà vào lòng Bác như một con chim nhỏ sà vào lòng mẹ. Và tôi không thể nói được gì hơn là khóc, tôi gục đầu vào vai Bác và khóc nấc lên. Bác cầm tay dắt tôi lại ngồi xuống ghế và ân cần xoa đầu tôi, Bác hỏi:

- Tại sao gặp Bác mà cháu khóc?

Tôi cố gạt nước mắt nhìn lên để thưa với Bác:

- Thưa Bác, cháu mừng quá...

Tôi chỉ nói được có thế rồi nước mắt lại chảy nhiều hơn. Khi địch chặt chân tôi, tôi không hề khóc mà bây giờ đây gặp Bác tôi lại khóc...

Bác để trước mặt tôi một cái bình rất đẹp và hỏi:

- Cháu Kiển biết đây là cái gì không?

Tôi lau nước mắt và thưa:

- Dạ, có phải cái bình rượu không ạ!

Như một người ông, Bác cười nói với đứa cháu nhỏ:

-          Không phải, đây là cái đồng hồ.

Bấy giờ tôi mới nhìn kỹ thì đó là chiếc đồng hồ để bàn lồng trong một cái bình rất đẹp. Bây giờ nghĩ lại tôi mới biết khi đó Bác mang chuyện cái đồng hồ ra để làm cho tôi qua cơn "mừng mừng, tủi tủi" ấy đi. Thấy tôi vui Bác liền hỏi chuyện. Bác hỏi về đồng bào Duy Xuyên, về bạn bè, đồng đội của tôi. Bác biết rõ gia đình tôi lắm. Bác hỏi:

- Cháu ra ngoài này đã gặp hai anh cháu chưa?

Bác hỏi cha mẹ già của tôi còn ở lại nhà ai chăm sóc nuôi dưỡng. Bác hỏi thăm về các chị em khác, về chị Quyên, chị Ngô Thị Tuyết, chị Trần Thị Lý. Bác hỏi tôi có biết gia đình anh Trỗi như thế nào không? Bác hỏi cả tình hình của bà con ở Quảng Nam. Tôi cố thưa tỉ mỉ với Bác về những điều mắt thấy tai nghe. Bác nghe rất chăm chú, Bác tỏ ra vừa lòng với tinh thần bám trụ vừa sản xuất vừa chiến đấu của đồng bào quê tôi. Bác gật đầu khen tôi:

- Cháu cũng biết được nhiều chuyện đấy!

Tôi chưa hết sung sướng và cảm động thì Bác đã hỏi:

- Thường ban đêm cháu có ngủ được ngon giấc không?

- Dạ, thưa Bác, cháu ngủ rất ngon giấc ạ!

- Chân cháu còn nhức không?

Bác luôn dành cho tôi những câu hỏi thăm rất tỉ mỉ, rất tình cảm, không khác nào một người ông đối với đứa cháu đi xa mới về. Bác hỏi cả trường hợp bọn địch chặt chân tôi. Thấy tôi nhìn xuống cái chân giả, Bác hỏi:

- Cháu có buồn không?

Tôi ngước lên, nhìn thẳng vào mắt Bác. Bác âu yếm nhìn tôi. Tôi như được Bác truyền cho nhiều sức mạnh. Tôi mạnh dạn thưa:

- Thưa Bác, cháu cũng như các bạn cháu ở miền Nam cứ nghĩ rằng: Trong chiến đấu, dù bị cụt hết tay chân, mà còn đôi mắt sáng để ngày chiến thắng được nhìn thấy Bác thì không bao giờ buồn. Hôm nay cháu được gặp Bác, cháu chỉ biết vui suốt đời.

Nghe tôi nói đến câu đó, mắt Bác chớp nhanh, hai giọt nước mắt lăn trên đôi gò má của Bác. Tôi bối rối và ân hận tại sao lại nói điều đó để Bác buồn. Như hiểu tâm tư đó của tôi, Bác chuyển sang chuyện khác...

Cuối buổi chiều, Bác bảo tôi và cả chú Vũ Kỳ ở lại ăn cơm với Bác.

Tới bữa ăn, thấy tôi ngồi hơi xa, Bác bảo chú Kỳ đổi chỗ để tôi được ngồi gần Bác. Bác xới cơm và bỏ vào bát cho tôi một cái đùi gà. Bác nói:

- Cháu là nữ thanh niên, cháu phải ăn nhiều vào nhé. Bác hỏi tôi ở đơn vị ăn uống như thế nào? Lúc Bác ăn hết bát cơm, xới bát khác, Bác đưa bát cơm về phía tôi hỏi:

- Bác xới thế này được chưa?

- Thưa Bác, Bác phải đơm thiệt đầy ạ!

Chiều ý tôi, Bác xới thêm thật đầy và cười. Bác bỏ thêm thức ăn cho tôi và bảo:

- Cháu phải thi đua ăn với Bác nhé!

Cả buổi chiều hôm đó tôi được sống trọn vẹn bên Bác cho mãi đến khi Bác chuẩn bị đi tiếp khách quốc tế. Đến giờ, Bác đi thay quần áo. Một lúc sau Bác bước ra với bộ quần áo kaki đại cán mới (lúc nãy Bác mặc bộ kaki đã cũ, cổ áo hơi sờn), Bác vui cười hỏi tôi:

- Bác tiếp khách Cuba, cháu xem Bác mặc thế này có đẹp không?

- Thưa Bác, đẹp lắm ạ!

Bác cười rất thoải mái. Bác dắt tôi xuống bậc thềm, nhìn xuống chiếc chân giả của tôi thấy có một mảng quần bị sờn, Bác nói:

- Chiếc chân giả này chưa tốt lắm, dễ bị rách quần. Rồi quay sang phía chú Kỳ, Bác hỏi:

- Sắp tới, cháu Kiển đi lắp chân ở đâu?

- Dạ, thưa Bác, ở Hunggari ạ!

Bác gật đầu tỏ ý hài lòng. Trước lúc chia tay, Bác hôn lên trán tôi và căn dặn:

- Cháu phải cố gắng tập đi để chóng trở về đội ngũ.

Mãi đến hôm nay, khi đất nước đã sang Xuân, tên Mỹ cuối cùng đã rút khỏi nước ta và tôi đã đi lại bình thường bằng chiếc chân giả. Tôi nghĩ rằng, trong từng bước đi đó của tôi, có tình thương và sức mạnh của Bác. Tôi nguyện sẽ đi nhanh hơn, để có thể trở về đội ngũ và tôi nghĩ nhiều đến các bạn tôi, những con người đang giữ vững đội ngũ cách mạng "Vì độc lập tự do" của Tổ quốc

Trích từ sách: Miền Nam trong lòng Bác, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1975

Bác làm văn nghệ

Hồi còn nhỏ, ở miền Nam, mỗi khi nghe các cô, các chú hoặc bà tôi kể chuyện Bác Hồ thì dù đang ham chơi hay làm bất cứ gì chúng tôi cũng kêu nhau chạy lại, chạy đến xúm quanh người lớn và chăm chú lắng nghe và nuốt lấy từng lời. Đã có lần, chúng tôi bàn nhau viết một lá thư ra Bắc mời Bác vô thăm miền Nam để chúng tôi được tận mắt thấy Bác, nhưng rồi mong mãi, “Bác ở xa lắm, các con cứ chịu khó chăm học ngoan ngoãn, nhất định có ngày Bác sẽ vô”. Bà tôi nghe chuyện phì cười và dặn chúng tôi như vậy.

Những ngày ra miền Bắc, chưa được gặp Bác nhưng tôi vẫn nhớ lời bà tôi dặn và hy vọng thế nào cũng có ngày đạt được ước mơ đó. Nhưng thật không ngờ, cuối năm 1962 tôi được gặp Bác trong một trường hợp đặc biệt, vượt rất xa mơ ước trước đó của tôi. Cho đến nay, và mãi mãi về sau này, đó vẫn là niềm vui sướng, vinh dự quá lớn đối với tôi và mỗi lần nhớ lại, tôi không khỏi bồi hồi xúc động.

Lần ấy, tôi dự Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ ba. Được đi dự Đại hội văn nghệ toàn quốc đối với một diễn viên mới bước vào nghề như tôi là đã là một điều vô cùng phấn khởi lại thêm hy vọng sẽ được gặp gỡ Bác ở Đại hội làm cho tôi cứ náo nức không yên. Ngày 1 tháng 12, ngày cuối cùng của Đại hội. Bấy giờ vừa sau giờ nghỉ giải lao, chuông đã rung được mấy phút nhưng lẻ tẻ còn có đại biểu chưa vào hết hội trường. Bỗng ngoài hành lang có tiếng xôn xao rồi có tiếng reo: “Bác đến! Bác đến!”. Chỉ một loáng cả hội trường ào lên như sóng. Đồng chí Trường Chinh nhanh nhẹn đứng dậy ra đón Bác ở cầu thang. Tiếng reo mừng, tiếng hoan hô “Bác Hồ muôn năm!” cứ vang lên cho đến lúc Bác giơ tay ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống và ổn định trật tự để Bác nói chuyện. Người tôi nóng bừng lên, chú Võ Hồng Cương đưa cho tôi một bó hoa mà tôi cứ lúng túng không biết làm gì. Nhiều đại biểu được mang hoa lên tặng Bác cũng lúng túng không kém. Bác nhìn chúng tôi và hỏi:

- Tặng hoa à? Tặng hoa phải đi nhanh lên chứ?

Cả hội trường lại vang lên tiếng cười reo. Câu nói đầu tiên của Bác làm không khí Đại hội thêm vui vẻ đầm ấm hẳn lên. Chúng tôi cũng phấn khởi, lấy lại bình tĩnh ôm hoa chạy về phía Bác.

Bác lại hỏi:

- Không mấy khi được gặp đông đủ thế này. Bác muốn bắt tay tất cả, nhưng không có thì giờ. Vậy Bác bắt tay đại biểu thôi. Đại biểu nào cao tuổi nhất nào? - Bác cười và nói thêm - Bác nói tuổi cao nhất không phải già nhất đâu nhé!

Tiếng cười reo lại vang lên, họa sĩ Nguyễn Phan Chánh chạy lại.

- Đaị biểu nào ít tuổi nhất - Bác hỏi tiếp.

Tôi giật thót mình, vì trong đại hội, tôi được xem là người ít tuổi nhất.

Nhưng lúc ấy hình như tôi vẫn chưa dám tin là được Bác gọi.

Chú Bảo Định Giang kéo tay tôi dẫn về phía Bác rồi nói.

- Thưa Bác, Cháu Trà Giang đây, người miền Nam - trẻ nhất Đại hội đấy ạ!

Tôi dâng hoa lên Bác mà chân tôi cứ run run, Bác hôn lên trán tôi rồi hỏi:

- Phải cháu là người trẻ nhất Đại hội không?

-Dạ. Tôi đáp lí nhí vì niềm vui và xúc dộng nghẹn ngào.

- Trẻ mà có thành tích thì cháu càng phải chăm học và nhất là phải hết sức khiêm tốn.

- Dạ.

Tôi chỉ biết đáp vậy nước mắt muốn trào ra.

Trong giây phút đó, lời căn dặn của Bác tôi thấy thấm thía vô cùng. Tôi nhớ đến nội, đến bà con, cô bác và các bạn tôi đang ở miền Nam. Tôi đâu có thành tích đáng kể gì đâu. Bước đầu tuy có chút thành công, nhưng nhìn lại thấy mình còn yếu nhiều mặt. Thành tích ấy có thấm thía vào đâu với những hy sinh của bà con, bạn bè, cô bác miền Nam bao nhiêu năm đấu tranh phá ách kèm kẹp của địch. Thế mà trong đó vẫn chưa ai được thấy Bác Hồ như tôi bây giờ… Lại được nghe Bác nói và được Bác hôn nữa! Trời ôi, lúc này tôi thèm có đôi cánh quá! Tôi sẽ bay vụt về trong đó khoe với chúng bạn, tụi nó sẽ điên lên gì sung sướng cho tôi mất, nhất là con Sáng thân yêu của tôi. Giờ này tụi nó ở đâu? Có được? Có còn đi học không? Có còn nguyên vẹn cả không? Tôi thấy thương và nhớ chúng nó quá.

Bác hỏi lại hỏi và bắt tay lần lượt các đại biểu miền Nam, đại biểu miền núi.

Sau đó, Bác bắt đầu nói chuyện với Đại hội. Bác hỏi:

- Có bao nhiêu bản tham luận tất cả?

- Thưa Bác, chín mươi chín ạ. Một đồng chí đáp. Bác cười:

- Thế này là vừa đúng một trăm. Nhưng các cô chú đừng sợ, chỉ có ba trang thôi! Bác cầm tờ giấy giơ lên trước mặt, cả hội trường lại cười reo vui vẻ.

Bác nói tiếp :

- Bác nêu một kinh nghiệm cũ. Trong thời thanh niên - Bác hạ giọng nói thêm - Giờ Bác cũng vẫn còn là thanh niên - Bác hoạt động cho Đảng, Bác phải làm nhiều nghề. Làm ảnh, làm bếp. Đây có ai làm bếp không? Cũng có khi Bác làm văn nghệ, Bác viết một cuốn tiểu thuyết, nói thực là một quyển tiểu thuyết về cách mạng tháng Mười Nga. Bác viết, đồng chí Hồ Tùng Mậu in. In bằng đất. Rồi phát hành bao nhiêu? Một quyển. Mấy quyển nữa thì cảnh sát Anh tịch thu hết. May nó tịch thu tiểu thuyết mà không tịch thu được người viết vì hai anh em (Bác và Hồ Tùng Mậu) đi vắng.Vừa đây mới nghe đồng chí Tố Hữu nói có xem quyển ấy. Vậy là một quyển tiểu thuyết phát hành được một quyển, đuợc một người xem! Đó là một “thành công” về tiểu thuyết của Bác đấy! Bác lại viết một vở kịch đả kích Khải Định, bù nhìn của thực dân Pháp. Viết bằng chữ Pháp. Thế mới gan chứ. Điếc không sợ súng mà! Viết xong thì Bác phải đi. Sau này “Câu lạc bộ ngoại ô” có đem ra diễn. Thành công, thất bại thế nào, Bác cũng không biết. Đó là “thành tích”Bác viết kịch . Rồi Bác cũng diễn kịch nữa đấy!

Các đại biểu sân khấu và điện ảnh ồn ào vui vẻ. Tôi bật reo lên: “Bác cũng có lúc làm diễn viên!”, điều ấy đối với chúng tôi thật là thú vị biết chừng nào!

Bác cũng cười và kể tiếp:

- Ở Pháp có một nhóm văn nghệ tiến bộ. Họ viết một kịch bản đả kích thực dân. Bác sắm một vai, ra sân khấu không đầy một phút. Diễn xong, anh em bắt tay khen: “Đồng chí diễn khá lắm!”. Rồi thù lao một cốc cà phê!

Cả hội tường cười rộ, vỗ tay. Ngừng một lát, Bác nói tiếp:

- Kinh nghiệm thế nào? Trước cách mạng, muốn sống phải lao động chân tay, chứ làm văn nghệ thì ba lần làm văn nghệ. Bác chỉ đươc uống một cốc cà phê thôi!

Bác nói chuyện thật giản dị mà rất dễ nhớ. Tôi nhớ nhất những lời Bác nói về sân khấu và điện ảnh dưới thời đất nước ta còn bị nô lệ:

-… Nghề múa hát chỉ là một thứ tiêu khiển cho bọn “ngồi mát ăn bát vàng”. Chúng còn khinh rẻ và gọi những nghệ sĩ múa hát là “xướng ca vô loài”. Hồi đó chỉ có chiếu bóng câm, bọn thực dân Pháp dùng chiếu bóng để bôi nhọ dân tộc ta.Thí dụ, trong hội chợ ở Mác-xây, ngoài những tranh vẽ lũ công khanh Việt Nam đang lúc nhúc lạy quỳ trước vua bù nhìn cùng chó ngao toàn quyền, khâm sứ, ngoài những công nhân trần trụi kéo xe thuê, còn chiếu phim những bà già ăn trầu, răng đen, những công nhân gầy gò rách rưới, những người đóng khố đang leo dừa…Chúng gọi là “hình ảnh An Nam”. Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải làm cách mạng.

Bác khuyên nhủ và động viên những người làm công tác văn nghệ bây giờ phải cố gắng nhiều vì đã có điều kiện rất thuận lợi để phát triển tài năng. Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta. Những tác phẩm ca tụng chân thật những người mới, việc mới, chẳng hạn những người làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau.

…Bác về rồi mà những cảm xúc của giờ phút được gần Bác vẫn dào dạt trong lòng tôi. Những lời dạy bảo ân cần của Bác vẫn âm vang trong tâm trí tôi. Nếu như trước kia, tôi chỉ biết yêu Bác qua những sách, báo mà tôi đã học, qua những mẩu chuyện bà tôi, các cô, chú đã kể, những tấm ảnh mà tôi đã chăm chú nhìn từng sợi râu của Bác… thì giờ đây, lòng yêu kính của tôi đối với Bác được nhân lên gấp bội, sâu sắc hơn, cụ thể hơn. Bác đã trực tiếp dạy tôi “phải hết sức khiêm tốn”. Tôi hiểu, ở công tác của tôi không không phải là dễ dàng thưc hiện tốt lời Bác dạy, nhất là khi tuổi đời và tuổi nghề còn non nớt.

Sống giản dị, khiêm tốn, suốt đời cống hiến cho cách mạng, không suy bì tính toán cho cá nhân mình. Đấy là bài học rất lớn đối với tôi qua cuộc đời của Bác. Bài học này tôi càng thấm thía hơn khi được gặp Bác lần thứ hai.

Lần ấy, sau Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ ba khoảng một năm, tôi lại có may mắn lớn là được cùng với một số bạn vào thăm nơi Bác ở. Điều làm chúng tôi yên tâm và mừng nhất là thấy Bác vẫn khỏe, da Bác vẫn hồng hào, mọi cử chỉ của Bác đều nhanh nhẹn, dứt khoát.

Khi anh Kỳ giới thiệu đến tôi thì Bác gật đầu bảo nhớ rồi. Bác gị tên tôi và hỏi:

- Dạo này cháu làm gì?

- Dạ thưa Bác, cháu được đi học lớp lý luận nghiệp vụ ạ.

- Không tự kiêu chứ?

- Dạ thưa Bác, không ạ.

- Thế là tốt!

Bác cười, xốc lại chiếc áo khoác ở vai và dặn tiếp:

- Các cháu còn trẻ, phải chịu khó học và nhất là phải hết sức khiêm tốn học kinh nghiệm tốt của những người đi trước.

-Dạ - Tất cả chúng cháu đều “dạ” và chăm chú nhìn không bỏ sót một cử chỉ nào của Bác. Bác cho chúng tôi đi xem phim. Thật sung sướng cho tôi, khi xem phim tôi được ngồi gần Bác. Suốt buổi chiều, thật ra tôi chẳng xem được mấy vì phần nhiều là nhìn Bác. Tôi có cảm giác là tuy Bác khỏe, nhưng tóc Bác đã có bạc thêm nhiều. Nhớ lại những lần Bác nhắc đến miền Nam: “miền Nam trong tim tôi”, “Ngày nào tổ quốc chưa thống nhất. Bắc Nam chưa sum họp một nhà thì tôi còn ăn chưa ngon, ngủ chưa yên”, lòng tôi cứ nao nao vì thương Bác. Bác vẫn chăm chú xem, thỉnh thoảng lại hỏi chuyện tôi. Tôi nhớ hôm ấy có chiếu một bộ phim tài liệu của Liên Xô. Khi trên màn ảnh xuất hiện cảnh Đại hội ở điện Krem-lanh thì bác nói với tôi:

- Công trình xây dựng của công nhân Liên Xô thật vĩ đại phải không cháu?

- Dạ - Rồi tôi khoe với Bác - mới vừa qua, tới dự Đại hội liên hoan điện ảnh quốc tế ở Mát-xcơ-va, cháu đã được đặt chân đến cung điện lịch sử này.

Bác gật đầu hỏi:

- Thế cháu có thích không?

- Dạ thích - Rồi tôi lại nói luôn với Bác cảm giác ngỡ ngàng, có phần tự ti của một người mới ra nước ngoài lần đầu, đứng trước đam đông của gần năm mươi nước đến dự lễ khai mạc Đại hội. Quả tình là đối với tôi lúc đó, cái gì cũng mới lạ, bỡ ngỡ: những công trình kiến trúc đồ sộ, những cảnh bài trí choáng lộn, những kiểu ăn mặc đủ màu sắc mới lạ… Lúc ấy, trên màn ảnh cũng hiện ra quang cảnh đại hội, có cả tôi trong đó. Bác hỏi:

- Họ sang hả cháu?

- Dạ thưa Bác, họ sang và diện lắm Bác ạ. Còn mình thì chẳng có gì.

Hôm khai mạc Đại hội, người đông mà họ ăn mặc sang trọng quá, cháu cứ thấy ngường ngượng thế nào ấy…

Bác trả lời tôi và mắt không rời màn ảnh nhỏ:

Sao lại ngượng? Chúng ta còn nghèo nhưng dân tộc ta rất đáng tự hào, phải không cháu?

- Dạ. Tôi thấy lúng túng và thấy mặt nóng bừng lên.

Cho mãi đến sau này, mỗi lần nghĩ lại, tôi vẫn còn thấy ân hận không hiểu tại sao lúc ấy tôi lại nói với Bác điều ấy. Đành rằng tôi chỉ thú nhận một tâm trạng có thật, nhưng cái đó đối với tôi cũng chỉ thoáng qua thôi, tại sao phải để Bác bận tâm vì một chuyện như thế? Khi ra về, thấy nét mặt Bác vẫn rất vui, tôi mới hơi yên lòng, nhưng tôi vẫn không thể tha thứ cho sự thiếu sót trên. Tôi đặt quyết tâm phải luôn luôn đinh ninh nhớ lời Bác dạy, học tập lối sống giản dị và đạo đức cách mạng lớn lao của Bác. Vì xét cho cùng, ý nghĩ trên của tôi chứng tỏ đã có lúc tôi muốn buông lỏng mình theo những cám dỗ bề ngoài rất không đúng lúc. Lời nhắc nhở của Bác đã cho tôi một bài học vô cùng thấm thía.

Làm sao mỗi nhân vật thể hiện điều mang đươc nhịp đập hơi thở của thời đại, xứng đáng với miền Nam, với dân tộc ta anh hùng đang làm nên những năm tháng lịch sử này? Những lời căn dặn và sự săn sóc ân cần của Bác, lòng mong mỏi, hy sinh của ba má, của bạn bè… luôn luôn thôi thúc tôi.

Tôi muốn, bằng việc làm thực tế, bằng những nhân vật thể hiện, tôi gửi gắm vào đó tất cả những suy nghỉ nung nấu, lòng căm thù sâu sắc sâu sắc cũng như niềm yêu thương, mong nhớ vô hạn và cả những ước mơ cháy bỏng mà tôi hằng ấp ủ…

Tôi muốn, qua đó thưa với Bác lời quyết tâm và lòng biết ơn chân thành của tôi đến với Bác kính yêu.

Trích từ sách: Người là Hồ Chí Minh (Tập Hồi ký), Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995

Bác dạy “Phải chăm chỉ học tập” 

Năm 1950, tôi 16 tuổi, nhưng người còn bé lắm. Từ Khu III, tôi chuyển công tác về làm liên lạc đưa công văn sang Văn phòng Phủ Chủ tịch. Hôm đó, đang chú ý nhìn một tổ chim trên cành cao, tôi bỗng thấy một Ông Cụ già ở phía trước đi lại. Thoáng trông, tôi nhận ngay ra Bác, tôi reo lên và chạy lại. Bác thân mật dẫn tôi đi về phía văn phòng. Trên đường, Bác hỏi chuyện tôi về gia đình, về công tác,về sinh hoạt và bảo tôi ở lại ăn cơm trưa.

Bấy giờ theo chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, cơ quan chọn cử một số cán bộ trẻ ra nước ngoài học. Tôi cũng ở trong số đó. Nhưng tôi không muốn đi. Biết được điều đó, Bác liền gọi đến và nói:

- Bây giờ có điều kiện thì phải học tập. Học tập để hiểu nhiều, biết nhiều. Có hiểu nhiều biết nhiều, mới phục vụ nhân dân tốt được.

Sau khi giảng giải và khuyên tôi đi học là cần thiết, Bác dặn:

- Đi học thì phải chịu khó, chăm chỉ học tập. Chưa hiểu thì hỏi, không được giấu dốt, đã hiểu rồi thì bảo lại cho bạn cùng hiểu.

Rồi Bác lấy cái hộp thuốc lá của Bác đưa cho tôi. Bác nói:

- Bác cho cháu cái hộp này để đựng kim chỉ, ngoài giờ học thêu, thùa, vá, may. Con gái phải biết làm những việc đó.

Tôi học sư phạm và trở thành nhà giáo. Ngày tháng qua đi rất nhanh. Nhưng những lời Bác dặn vẫn vang vọng trong lòng tôi. Tôi ra sức học tập, dạy dỗ các em. Chiếc hộp thuốc lá Bác cho, tôi giữ rất trân trọng. Nghe lời Bác dặn, tôi học may, học vá, học thêu thùa. Trong chương trình học tập của các em, tôi cũng cố gắng sắp xếp thì giờ dạy các em gái trong lớp học khâu vá. Năm nào, tôi cũng kể cho các em nghe chuyện chiếc hộp thuốc lá Bác cho. Tôi không có ý đề cao mình là đã được gặp Bác, mà muốn qua câu chuyện thật làm cho các em thêm kính yêu lãnh tụ, thêm cố gắng học tập và làm theo lời Bác dạy.

Tôi được gặp lại Bác trong một trường hợp rất đột ngột. Hôm đó, Bác đến thăm trại hè của giáo viên họp ở trường Chu Văn An. Nghe tin Bác đến thăm, cả hội trường náo nức hẳn lên. Riêng tôi thì lòng xáo động, bồn chồn đến lạ! Suốt từ ngày xa Bác ở Việt Bắc đến giờ, tôi chưa được gặp lại Bác. Không biết Bác dạo này có khỏe không? Bế con trong lòng, tôi cứ thầm mong Bác đi qua chỗ mình để được thấy Bác (Hôm đó đi họp buổi tối, tôi bế theo cả cháu bé).

Bác đến. Cả hội trường reo lên. Bác nói chuyện với chúng tôi rất vui, rất sôi nổi. Bác hoan nghênh năm học vừa qua các thầy giáo, cô giáo đã có nhiều cố gắng. Bác nói:

- Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước tiên phải có con người xã hội chủ nghĩa. Các thầy giáo, cô giáo là những người đào tạo cho Tổ quốc những con người mới. Các thầy giáo, cô giáo phải thấy nhiệm vụ đó là hết sức vinh quang nhưng cũng vô cùng nặng nề, mà mỗi người đều phải cố gắng vượt bậc mới hoàn thành được…

Bác dặn:

- Thầy giáo thì phải hiểu học trò, phải thực sự thương yêu, chăm sóc học trò. Dạy học, không chỉ dạy trên lớp mà còn phải liên hệ với gia đình, với đoàn thể.

Nói chuyện xong, Bác bước xuống bục, đi lại phía tôi. Gặp tôi, Bác hỏi:
- Cháu Đức đó à?

Tôi xúc động quá! Bao nhiêu năm rồi, bao nhiêu ngày xa cách, bao nhiêu sự việc, bao nhiêu con người... thế mà Bác còn nhớ tôi. Cổ nghẹn lại, nước mắt trào ra, mãi tôi vẫn không trả lời Bác được.

Thấy tôi bế cháu bé. Bác lại hỏi chuyện gia đình tôi và khen cháu bé khoẻ, lớn. Tôi nghĩ đến những lời Bác dặn trước kia và cái hộp thuốc lá Bác cho để đựng kim chỉ. Tôi nói với Bác:

- Thưa Bác, nghe lời Bác dạy, cháu đi học sư phạm rồi về nước dạy học, cái hộp Bác cho để đựng kim chỉ, cháu vẫn còn giữ.

Tôi định nói rất dài nhưng cổ cứ nghẹn lại không thể nào nói được nữa.
Bác hỏi tôi bây giờ đã biết khâu vá giỏi chưa và dặn tôi đã là cô giáo thì không phải chỉ có mình biết mà còn phải dạy cho học trò biết nữa.

Bác vuốt má cháu bé, con tôi, rồi nói tiếp:

- Vừa dạy học, vừa nuôi con, như thế này là giỏi, Bác khen, nhưng phải cố gắng hơn nữa.

Mười ngày sau, Phủ Chủ tịch gửi ra cho tôi bức ảnh Bác đang âu yếm vuốt má cháu bé con tôi. Đó là tấm ảnh quý nhất của cả đời tôi. Hình ảnh đó mãi mãi ở trong con tim khối óc của mẹ con tôi...

Trích từ sách: Nước non bừng sáng. Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975

Còn nữa

Huyền Trang (tổng hợp)

Bài viết khác: