Hình ảnh Bác Hồ
Hồi ấy, vào mùa Xuân 1946, tôi ở trong Ban Chấp hành Đoàn Phụ nữ cứu quốc tỉnh Bến Tre. Ban Chấp hành phụ nữ giao cho tôi nhiệm vụ tổ chức một Đoàn gồm các mẹ, các chị, cùng một số nữ thanh niên ra hỏa tuyến chúc Tết bộ đội. Tôi đang say sưa làm công tác thăm hỏi bộ đội thì có lệnh Tỉnh ủy gọi về. Tôi được nhận nhiệm vụ mới, rất đặc biệt, hoàn toàn không ngờ tới. Tôi được cử đi trong phái đoàn Nam bộ ra miền Bắc báo cáo với Hồ Chủ tịch và Chính phủ về tình hình sau Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và xin vũ khí trang bị cho Nam bộ. Bước chân xuống đất Hà Nội, lòng tôi xôn xao, rạo rực.
Chiều tháng 5. Nắng hè rực rỡ. Chúng tôi đang ngồi chuyện trò thân mật tại nhà anh Đặng Thai Mai, hồi đó là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, thì nghe thấy tiếng ôtô đậu trước cổng. Một ông già phúc hậu, người dong dỏng cao, thoăn thoắt bước vào. Đúng là Bác rồi! Giống hệt như trong ảnh mà tôi đã thấy. Tôi đứng im nhìn Bác. Ôi! Ước mơ của tôi ngờ đâu sớm thành sự thực.
Lần đầu tiên gặp Bác một cách rất bất ngờ, tất cả chúng tôi hết sức cảm động bởi đôi mắt của Bác, đôi mắt sáng ngời, đầy chí kiên quyết, nhưng đồng thời cũng thân thương, trìu mến, hiền hậu vô biên…
Bác ung dung, tươi vui trong bộ kaki giản dị, Bác cười niềm nở và bắt tay từng người rồi ngồi bên cạnh tôi. Gặp Bác! Chúng tôi vừa xúc động trước tấm lòng thương yêu chăm sóc của Bác, vừa sửng sốt và bối rối. Bác hỏi thăm sức khỏe từng đồng chí trong Đoàn. Nhưng tất cả đều nghẹn ngào, không ai thưa với Bác được một lời. Những ngày đi đường, anh chị em trong Đoàn bàn nhau chuẩn bị gặp Bác sẽ báo cáo những gì. Riêng tôi cũng sắp xếp trong óc những điểm về tình hình của phụ nữ Nam bộ để báo cáo với Bác. Nhưng đến lúc Bác cho tôi được nói trước, thì bao nhiêu điều đã chuẩn bị để báo cáo với Bác biến đi đâu mất.
Thấy tôi vẫn chưa hết xúc động, Bác cười vui và gợi từng ý để tôi có thể nhớ mà báo cáo lại. Bác nói dịu dàng, lòng tôi như ấm lên. Tôi bình tĩnh dần và lắng nghe từng câu hỏi cặn kẽ của Bác mà báo cáo. Giọng tôi lúc đầu hơi run, nhưng sau thì mạnh bạo hẳn lên. Tôi báo cáo rành rọt từng sự việc.
Bác chăm chú nghe chúng tôi báo cáo. Bỗng hai giọt nước mắt chảy trên gò má Bác. Ôi! Suốt đời, tôi không bao giờ quên những giọt nước mắt ấy. Những giọt nước mắt của Bác đọng lại mãi mãi trong tâm hồn tôi. Tôi nghĩ đó là cả một biển tình thương bao la của Người dành cho đồng bào Nam bộ.
Bác nhìn chúng tôi rất trìu mến và giọng Bác ấm áp:
- Đồng bào và chiến sĩ đang ra sức khắc phục khó khăn, thiếu thốn để kháng chiến. Chính phủ và đồng bào cả nước sẽ hết sức cùng chiến sĩ và nhân dân Nam bộ hiện đang anh dũng đấu tranh để giữ vững độc lập dân tộc. Chúng ta nhất định thắng lợi, vì chúng ta có sức mạnh đoàn kết của toàn dân. Chúng ta nhất định thắng lợi, vì cuộc đấu tranh của chúng ta là chính nghĩa.
Chiều hôm đó, gia đình anh Đặng Thai Mai làm cơm mời Bác và chúng tôi. Chúng tôi sửa soạn kê bàn, xếp ghế để dọn cơm. Anh Tư Thỉnh và anh Chín Nghiệp đang bố trí lại chiếc bàn ăn, thì Bác đi tới đỡ một tay. Nhìn bác sĩ Nghiệp - anh cao gần 1 mét 80, nặng 75 - 76 ki-lô, Bác nói: “Người Việt Nam ta ai cũng to, cao như chú thì tốt quá!”. Chúng tôi vui sướng được ăn cơm với Bác. Bữa cơm gia đình thật thân mật, ấm cúng. Trong bữa ăn, Bác hỏi chúng tôi rất nhiều chuyện về Nam bộ. Bác hỏi cả chuyện học hành và sinh hoạt của anh chị em cán bộ, chiến sĩ. Đồng chí Trưởng đoàn báo cáo cụ thể với Bác về tình hình sau Hiệp định sơ bộ 6-3 và các mặt khác. Bác lại hỏi chuyện riêng mỗi người chúng tôi.
Bác quay sang tôi hỏi tiếp:
- Trong ấy, thiếu thốn súng đạn lắm. Các cô, các chú muốn xin bao nhiêu khẩu mang về?
Thật là Bác đã nói đúng điều quan trọng nhất mà các đồng chí lãnh đạo ở Nam bộ đã dặn đi dặn lại mãi trước khi chúng tôi lên đường ra Hà Nội.
Quả Bác là người Cha đã hiểu thấu tâm tình của con. Tôi báo cáo với Bác:
- Dạ thưa Bác, thiếu lắm.
Bác nói thong thả:
- Thế nào Trung ương và Chính phủ cũng có súng gửi vào Nam. Nhưng nước ta còn nghèo, các cô các chú về phải đánh Pháp cho giỏi, cướp lấy súng của nó mà dùng thì mới có nhiều vốn.
Bác và chúng tôi đều cười tin tưởng.
Bác nói tiếp:
- Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Lần thứ hai, Đoàn chúng tôi đến chào Hồ Chủ tịch ở Bắc Bộ phủ, Bác vẫn đón tiếp chúng tôi thân mật như người trong gia đình. Ít hôm sau, chúng tôi lại được vinh dự thay mặt cho nhân dân Nam bộ đến mừng sinh nhật Bác ngày 19-5. Trìu mến nhìn chúng tôi, Bác nói:
- Tôi cảm ơn các cô, các chú Nam bộ. Thật ra các báo ở Thủ đô trong dịp này đã làm to Ngày sinh nhật tôi. Hiện nay nước ta đang có nhiều khó khăn.
Giọng Bác càng xúc động:
- Các cô, các chú về báo cáo với nhân dân miền Nam thân yêu rằng: Lòng già Hồ, lòng nhân dân miền Bắc lúc nào cũng ở bên cạnh đồng bào Nam bộ.
Nói xong Bác khóc. Chúng tôi đều khóc!
Sau một thời gian làm việc ở Thủ đô Hà Nội, tôi trở về Nam. Các anh trong Đoàn còn ở lại miền Bắc công tác lâu dài hoặc làm thêm một số việc nữa rồi về sau. Chỉ có mình tôi nhận súng, tiền và tài liệu của Trung ương mang về Nam bộ.
Chín năm kháng chiến, bản thân tôi đã nhiều lần suýt chết. Nhưng mỗi lần gặp gian nguy, thậm chí có những lần mặt đối mặt với kẻ thù, tôi lại thấy hình ảnh Bác hiện rõ trong tâm trí mình. Bác đã truyền cho tôi sức mạnh phi thường. Nhờ đó, tôi đã vượt qua không biết bao nhiêu đoạn đường chông gai, thử thách…
Năm 1968, tôi vô cùng cảm động nhận món quà quý của Bác. Chiếc lược làm bằng mảnh xác máy bay giặc Mỹ, bị bắn rơi trên miền Bắc. Bác gửi lược cho cả hai cháu Châu và Quyên nữa. Chiếc lược đơn sơ mà sáng đẹp làm sao. Dòng chữ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” tươi nét trên mặt kim loại trắng như nhắc nhở chúng tôi luôn luôn làm theo lời Bác. Cuối năm 1968, Bác lại gửi cho tôi chiếc Huy hiệu có hình ảnh của Người. Vinh dự và cảm động biết bao khi đeo chiếc Huy hiệu Bác lên ngực áo, bên trái tim mình. Tôi hiểu đây là phần thưởng cao quý của Bác dành cho phong trào phụ nữ miền Nam. Tôi hứa cố gắng không ngừng để xứng đáng với Bác, với đồng bào miền Nam yêu quý.
Đeo Huy hiệu Bác Hồ trên ngực, tôi thấy như lúc nào cũng có Bác ở bên mình. Bác luôn luôn nhắc nhở, động viên tôi.
Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Các cô cứ cố gắng, đã có Đảng giúp
Năm 1928 tôi tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Năm 1930 tôi dự lễ tuyên bố thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương tại một gian nhà nhỏ phía sau đường lên ga Vinh. Tôi có nghe nói đến việc thống nhất được ba nhóm cộng sản nhưng chỉ biết có sự chủ trì của “đồng chí xuất dương” chứ chưa biết rõ tên họ đồng chí đó. Ngày 1-5-1930, chúng tôi được nghe lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ đó, cái tên Nguyễn Ái Quốc là nguồn động viên tôi phấn đấu vượt qua mọi khó khăn gian khổ trước sự tra tấn dã man của mật thám Pháp, và trong những nhà tù của bọn đế quốc, phong kiến. Cái tên Nguyễn Ái Quốc đem đến cho tôi lòng tin tưởng chắc chắn vào thắng lợi cuối cùng. Cách mạng Tháng Tám thành công, tôi nóng lòng mong mỏi được thấy Bác. Tôi định làm theo kế hoạch của chị Lê Thị Quế, đánh liều mua ít cam ra tận Hà Nội, xin vào thăm Bác. Tôi lại định chở gạo chống đói ra Bắc nộp, may ra được gặp Bác chăng. Ai cũng cười, tôi chẳng dám đi. Cho đến ngày Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất (tháng 3-1950), sau 20 năm mong mỏi tôi mới được thực hiện điều mong ước nói trên. Đại biểu chẳng ai bảo ai, nhưng mọi người đều tin chắc rằng thế nào Bác Hồ cũng đến thăm Đại hội. Ai cũng biết là Bác đến kiểu “du kích”, nhưng ai cũng cố chuẩn bị thật sẵn sàng về mọi mặt. Nhất là nếu được Bác hỏi đến thì phải thưa với Bác thật đầy đủ về phong trào phụ nữ địa phương mình.
Riêng tôi, vừa được chỉ định thay chị Hoàng Ngân làm Bí thư Đảng đoàn phụ nữ Trung ương từ cuối năm 1949, tôi rất lo. Tôi lo công việc Đại hội chưa chu đáo, tôi cũng mừng vì sắp được gặp Bác. Tôi cố đoán xem Bác sẽ đến khi nào, Bác đi một mình hay đi cùng với những đồng chí nào. Tôi chú ý các lối vào Đại hội để Bác đến là có thể thấy ngay. Tôi hồi hộp quá, không thể ngồi yên, cứ muốn sửa cái này một tý, xếp lại cái kia cho dễ coi hơn, bàn với đồng chí này một chút, nói với đồng chí khác một điểm… Một buổi trưa nắng ấm, các đại biểu đang còn nghỉ thì Bác đến. Các khu Đại hội bật dậy. Bác đến! Bác đến! Mọi người vừa reo vừa chạy ra sân hội trường đón Bác, không còn ai giữ nổi “trật tự” nữa. Và tôi là người đến chậm nhất. Tôi chỉ kịp nhận ra rằng Bác đi ngựa tới, cùng đi với Bác có năm, sáu đồng chí nữa. Bác mặc áo kaki, ngoài khoác áo choàng ngắn. Bác đi từ phía cuối vào. Mọi người cứ chờ Bác, thế mà khi Bác tới thì lại sửng sốt, ngơ ngác. Bác bình dị quá. So với ảnh Bác chụp khi nhân dân ra mới giành được chính quyền, Bác có gầy đi chút ít. Nhưng Bác rất vui và nhanh nhẹn.
Bác xuống ngựa. Mọi người quây quanh Bác. Chị Điều Thị Hảo, mặc kiểu dân tộc gọn gàng, có gương mặt tươi hồng của những cô gái vừa lớn lên, đứng cạnh Bác. Bác hỏi:
- Cô ở Việt Bắc hay Tây Bắc?
- Thưa Bác, cháu là người dân tộc Thái ở khu Tây Bắc ạ.
Bác gật đầu rồi quay sang hỏi cô Nga:
- Cô là đại biểu khu nào?
- Dạ thưa Bác, cháu ở khu IV ạ!
Nghe giọng nói quê hương, Bác hỏi tiếp:
- Nghệ An hỉ?
Cô Nga thấy Bác nói trúng tiếng quê mình, mừng quá, đáp ngay.
- Dạ phải.
Bác lại hỏi:
- Huyện mô?....
Thấy cụ Triệu đứng mãi ngoài xa, không chen được với các đại biểu trẻ để đứng gần, Bác hỏi với ra:
- Cụ là đại biểu khu nào?
- Thưa, khu X.
Bác hỏi tên tỉnh, cụ Triệu nói rõ:
- Thưa, Phú Thọ.
Lúc ấy có chị Hồ Thị Minh đi dự Hội nghị phụ nữ châu Á về cùng dự Đại hội với chị Hồng, chị Phương, đại biểu phụ nữ Nam bộ mới vượt Trường Sơn ra Bắc. Bác cười rất hiền. Bác rất vui, chòm râu rung rung. Bác thương các cháu gái miền Nam xa xôi, người thì vượt núi trèo đèo, người thì vòng quanh quả đất cũng đều về được Việt Bắc.
Bác dự Đại hội, lắng nghe các đại biểu phát biểu ý kiến. Lúc nghỉ, Bác ân cần hỏi han từng người. Bác dành hẳn một buổi giải đáp các câu hỏi của các đại biểu. Chị em thẳng thắn hỏi tất cả những điều mình chưa rõ. Bác trả lời rất sáng rõ và thân thiết.
Bác hỏi các đồng chí trong Đảng đoàn về tình hình công tác phụ nữ, về việc chuẩn bị Đại hội và cả về tình hình sức khỏe, tình hình gia đình từng người. Bác nhìn chúng tôi như mẹ nhìn con. Một số chị em không khỏe lắm, Bác rất thương. Bác hỏi chị em nỗi lo lắng về công việc và cả hoàn cảnh riêng của mình, Bác nghe rất thương. Số chị em trong Đảng đoàn lúc ấy cũng ít. Bác dạy: “Các cô cứ cố gắng, các cô chú ý giữ gìn sức khỏe, còn công tác thì có Đảng giúp”… Những lúc không họp ở hội trường, Bác chỉ bảo từng ly từng tý và động viên mọi người. Trong các buổi nghỉ giải lao, Bác gọi từng đoàn đại biểu ra chụp ảnh với Bác. Chị em Liên khu IV đóng kịch diễn lại cảnh bà cụ nông dân nghèo khổ ở vùng bị địch chiếm, bọn lính thực dân Pháp và lính ngụy đến cướp thóc gạo và đánh đập đồng bào rất tàn nhẫn. Bác ứa nước mắt. Sau này, mỗi khi tôi đi dự các cuộc họp, được gặp Bác, Bác hay bảo tôi báo cáo Bác nghe về tình hình phong trào phụ nữ. Công tác phụ nữ có rất nhiều khó khăn, nhưng sự chăm sóc của Bác động viên tôi rất nhiều.
Hồi ấy, hàng năm cứ rơi vào vụ thu đông thì các cơ quan lại chuyển lên phía trên, ở các vùng giáp giới Tuyên Quang - Hà Giang hoặc Thái Nguyên - Bắc Cạn. Cuối năm 1950, cơ quan Hội Phụ nữ chúng tôi cũng rời đồi Hoàng Ngân (Định Hóa). Chúng tôi đi gọn nhẹ, những thứ không cần thiết thì để lại, cử chị Phái trông nom. Một hôm Bác đi công tác qua vùng ấy. Biết là cơ quan chúng tôi đã chuyển đi nhưng Bác vẫn ghé vào thăm, thấy chị Phái ở một mình, Bác thương lắm. Mấy hôm sau, đến thăm chỗ cơ quan mới của chúng tôi, Bác bảo: “ Các cô không nên để cô Phái ở một mình. Nên gửi các thứ còn lại cho đồng bào và đưa cô Phái về cơ quan mới hoặc về địa phương công tác”. Bác dặn đi dặn lại khi ra về: “Không nên để cô Phái ở một mình” - Lúc để chị Phái ở lại, chúng tôi cho rằng cơ quan ít người chỉ có thể để chị Phái ở lại, vả lại đồi Hoàng Ngân cũng gần nhà nhân dân, chị Phái ở lại đấy cũng được. Nghe Bác nói chúng tôi càng thấy Bác thương yêu cán bộ sâu sắc. Ngày 11-2-1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng họp ở Việt Bắc. Tôi được vinh dự ở trong Đoàn Chủ tịch. Đại hội làm việc và ăn, ở ngay tại địa điểm họp, hàng ngày tôi được thấy Bác. Bác điều khiển hội nghị gọn gàng, linh hoạt. Nghe đại biểu Nam bộ, nghe đồng chí Ngô Gia Khảm phát biểu, Bác ứa nước mắt. Đến bữa ăn, Bác thường hỏi: “Các cô, các chú ăn có ngon không?”.
Thấy tôi xanh và gầy vì mới ốm khỏi, Bác bớt một ít thức ăn của Bác sẻ cho tôi, tuy Bác ngồi ăn cách chỗ tôi mấy cái bàn. Bác bảo:
- Cho cô ốm.
Tôi cảm động nghẹn ngào.
Năm 1952, đầu mùa Hè, các cơ quan lục tục kéo về châu Tự do. Chúng tôi cũng rất mong được về. Chị Thanh Hương và một số chị em về trước để sắp xếp, nhưng mãi chúng tôi vẫn không có nhà ở. Bác hỏi thăm, thấy cơ quan Hội Phụ nữ chưa chuyển về được, Bác hỏi anh Hoàng Quốc Việt, anh Việt cho biết là nhân công ở căn cứ địa thiếu, chưa làm kịp nhà. Bác liền cử anh Chánh là bác sĩ chăm sóc sức khỏe của Bác xem giúp đất, tìm chỗ vừa kín, vừa thoáng. Bác lại cho anh em bảo vệ Bác ra làm giúp nhà, đào giúp hầm. Lần đầu tiên, cơ quan Hội Phụ nữ có những cái nhà xinh xắn làm bằng nứa đan rất kỹ và có hầm đào sâu ngập đầu người theo hình chữ chi. Đó là nơi chúng tôi ở cho đến khi hòa bình được lập lại. Lúc bấy giờ, chị em trong cơ quan sốt rét luôn và ăn uống rất kém. Có một lần ghé thăm, Bác hỏi: “Các cô có trồng rau không?. Chị em thưa có. Bác bảo đưa Bác ra thăm vườn rau. Bác ra vườn. Quả tình là rau mọc quá lơ thơ. Bác bảo: “Bác phải cúi xuống nhìn thật kỹ mới trông thấy rau”. Chúng tôi nhìn nhau, biết rằng Bác phê bình mình làm chưa tốt. Bác bảo tiếp: “Chỗ Bác có nhiều giống rau. Bác còn thả cải xoong ở suối tốt lắm. Các cô cố gắng trồng thật nhiều rau và cố nuôi gà lấy trứng mà ăn cho khỏe. Nghe lời Bác, chúng tôi củng cố lại Ban tăng gia sản xuất. Đi qua, thấy vườn rau của chúng tôi xanh tốt, Bác vui lòng. Năm ấy, Hội đồng Chính phủ họp, khi kiểm điểm về tình hình các cơ quan tăng gia sản xuất, các đồng chí phụ trách báo cáo là công tác này tiến bộ nhiều. Bác cười bảo rằng đúng thế, vì ngay vườn rau của phụ nữ cũng tốt.
Năm 1953, Hội Liên hiệp Phụ nữ cử một đoàn đại biểu đi dự Đại hội Phụ nữ quốc tế. Chúng tôi sang cơ quan Trung ương Đảng xin ý kiến. Qua đèo Re, trời mưa, đường lầy, chúng tôi đi rất chậm. Trời đã quá trưa, chúng tôi đói bụng nhưng mệt quá đành ngồi nghỉ lại. Chợt có tiếng vó ngựa. Một chị đứng bật dậy kêu khẽ: “Đúng là Bác!”. Chúng tôi đều nhận ra đúng là Bác, mặc dù chỉ thấy có đôi mắt sáng và hiền (một cái khăn quàng cổ buộc ra sau gáy bịt kín cả miệng và cằm). Bác giơ tay ra hiệu. Chúng tôi hiểu ý, ngồi yên, chỉ nhìn theo cho đến khi ngựa của Bác khuất vào rừng cây. Được trông thấy Bác, bao nhiêu mệt mỏi đều tiêu tan, chị An, chị Bảo, cô Hảo và tôi giục nhau đi tiếp. Vừa đến nơi Trung ương ở, chúng tôi đã thấy anh Trường Chinh cười và bảo”.
- Thôi các chị đi rửa chân rồi đi ăn cơm kẻo đói! - Thì ra Bác về đến nhà đã tự mình gọi dây nói thẳng cho anh Trường Chinh dặn chuẩn bị cơm cho chúng tôi.
Anh Trường Chinh nói:
- Bác còn bảo làm cơm ngay kẻo các cô ấy đói rồi.
Cuối năm 1953, chị Đinh Thị Cẩn, chị Lê Thị Xuyến, các cán bộ văn phòng và Ban Tuyên huấn cùng những chị em giỏi chữ đi vắng hết, người thì đi tham gia cải cách ruộng đất, người thì đi phục vụ chiến dịch. Tết đến, tôi đành phải tự tay viết thư chúc Tết Bác và các đồng chí Trung ương. Tôi cầm bút, ngồi mãi chỉ viết được mấy dòng. Ngoài Tết, Bác ra thăm cơ quan Hội Phụ nữ. Khi ra về, đã qua suối, Bác còn quay lại gọi các cô bảo: “Bác quên nhắc các cô phải bớt ra một người mà dạy cô Ái học văn hóa. Cô ấy viết còn nguệch ngoạc lắm và sai nhiều quá”. Bác nhắc lại cả một số chữ tôi viết sai. Tôi rất xúc động, tự phê bình mình ngại khó, ỷ lại vào thư ký và từ đó tôi cố gắng học.
Tấm lòng của Bác thương yêu chăm sóc quần chúng phụ nữ, thương yêu chăm sóc cán bộ phụ nữ từng ly từng tý, từ việc lớn đến việc nhỏ, không thể nào ghi được hết, nói được hết. Những điều tôi kể trên đây chỉ nói lên một phần nhỏ, một phần rất nhỏ sự quan tâm ân cần và cao cả của Bác đối với phong trào phụ nữ, đối với cơ quan lãnh đạo Trung ương của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam khi mới thành lập trong những ngày toàn dân gian khổ chiến đấu chống thực dân Pháp.
Trích từ sách: Non nước bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội
Đi dự Quốc dân Đại hội Tân Trào
Tôi đang công tác ở Hải Phòng thì được chỉ thị đi nhận nhiệm vụ mới. Sau khi bàn giao công tác cho đồng chí Vũ Quốc Uy, tôi về thẳng nhà đồng chí tên Tiên ở Tây Mỗ, một cơ quan giao thông của Xứ ủy mà tôi đã ở một thời gian trước khi xuống Hải Phòng.
Về đây, tôi mới biết là tôi được cử vào đoàn đại biểu Dảng Dân chủ Việt Nam đi dự Quốc dân Đại hội Tân Trào. Địa điểm tập hợp của Đoàn là một quán nước trên đường cái, cách cầu Đuống khoảng vài cây số. Anh em ăn mặc “cải trang” đủ cách: Người thì mặc kiểu “lái trâu”, áo cánh nâu, quần nâu xắn móng lợn, nhưng vẫn lộ cái trán cao đặc “trí thức”, người mặc áo dài the đen, quần vải trắng, nhưng lại lấp ló cái áo sơ minh đúng “mốt” bên trong… Rồi phòng thông tin đỏ rực cờ sao, rồi từng toán dân quân, du kích nai nịt gọn ghẽ, đi lại tấp nập - khắp nơi, băng, cờ, khẩu hiệu hoanh nghênh đại biểu đi dự Đại hội….
Một buổi sáng, tôi gặp một đồng chí dân quân dắt một con ngựa đi ngược chiều với chúng tôi, sau khi chào hỏi, đồng chí nói với tôi:
- “Ông Cụ” bảo dắt ngựa xuống đón O11. Tôi không nhớ tên là O gì. Có thể là một chị (chị Xân) ở Nghệ An, nữ đại biểu già nhất của Đại hội ấy!
Tôi không hiểu “Ông Cụ” là ai mà quan tâm đến đại biểu, đến phụ nữ, đến người già như vậy, nhưng vì nguyên tắc công tác bí mật, nên tôi không hỏi.
Trưa ngày 16-8, chúng tôi lên tới Tân Trào - vừa rửa mặt xong đã có đồng chí đến giục ăn mặc chỉnh tề ra dự lễ xuất phát của đoàn quân giải phóng đi đánh Thái Nguyên. Sau khi đồng chí Văn (đồng chí Võ Nguyên Giáp) đọc lệnh xuất phát, đồng chí Trần Huy Liệu thay mặt Đại hội chào mừng đơn vị Giải phóng quân và chúc đơn vị đánh thắng quân Nhật ở Thái Nguyên. Tôi được thay mặt đại biểu nữ trong Đại hội lên phát biểu.
Hôm ấy Bác ốm nhiều nhưng Bác cũng cố gắng đến dự Đại hội. Bác mặc bộ quần áo chàm quen thuộc của các cụ già Nùng. Nhiều đại biểu không biết Bác là ai nhưng tất cả đều tôn kính gọi Bác là “Ông Cụ”, vị đại biểu nhiều tuổi nhất của Đại hội.
Đại hội sắp khai mặc, nhà tôi (anh Dương Đức Hiền) gọi tôi:
- Em vào đây, anh giới thiệu với “Ông Cụ”.
Tôi đang bối rối chưa biết chào như thế nào thì Bác rất tự nhiên hỏi ngay:
- Cô công tác ở đâu?
- Dạ, thưa, cháu công tác ở Hải Phòng - Kiến An và Quảng Yên ạ.
- Ba tỉnh kia à? Thế thì bằng Tổng đốc rồi còn gì!
Câu nói vui của Bác làm cả ba chúng tôi cùng cười xòa và tôi cũng hết lúng túng.
Đại hội thảo luận nhiều vấn đề quan trọng: Chính sách đối nội, đối ngoại, biểu quyết lệnh Tổng khởi nghĩa và bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng.
Vì tình hình gấp rút, Đại hội chỉ họp có hai ngày. Tối hôm bế mạc, Bác mời đại biểu nâng cốc:
- Rượu hôm nay chúng ta uống là rượu mà Đội Giải phóng quân vừa hạ đồn Tam Đảo gửi biếu đấy.
Mọi người vỗ tay hoan hô. Đại hội bừng bừng khí thế chiến thắng. Bác đề nghị đại biểu nào biết hát lên hát cho vui. Anh Hoàng Đạo Thúy đã mở đầu bằng bài Lửa trại. Tối hôm ấy, Bác đã như một người Cha của một đại gia đình, tạo cho Đại hội một không khí thật thân mật, thật đoàn kết và thoải mái.
Trong buổi lễ ra mắt của Ủy ban Dân tộc giải phóng, sau lễ tuyên thệ, Bác giản dị chỉ vào một em bé ở trần theo bố mẹ ra dự lễ và nói với các đại biểu:
- “Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm cho tất cả mọi người được ăn no, mặc đủ và được học hành”.
Câu nói làm cho nhiều người rơm rớm nước mắt và thấy rõ nhiệm vụ cách mạng còn lâu dài, gian khổ, giải phóng mới chỉ là bước đầu…
Sau Đại hội, các đồng chí trong Ủy ban Dân tộc giải phóng và một vài đồng chí còn ở lại.
Hôm chia tay, chúng tôi ngồi vòng tròn trên sàn nhà, Bác lần lượt chia quà tặng cho mọi người.
Đến lượt chúng tôi, Bác hỏi:
- Cô chú đã có cháu chưa?
- Dạ chưa ạ.
- Thế tôi tặng bánh xà phòng thơm này, mau có cháu, tắm cho bé nhé!
Mọi người cười ồ. Chúng tôi nắm chặt món quà quý, thấy tấm lòng Bác rộng mênh mông, thông cảm và thu phục được tất cả mọi người.
Trích từ sách: Quốc dân đại hội Tân Trào,
Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, 1995
Cứ công tác giỏi
….Tháng 11-1959, tôi được điều về công tác ở phòng y tế huyện. Chưa đầy một năm, tháng 9-1960, tôi lại được về tỉnh học bổ túc văn hóa. Không ngờ dịp này, hân hạnh cho tôi là: Được gặp Bác Hồ!
….Tháng 3-1961, Ban Giám hiệu cho biết sẽ có cán bộ Trung ương về thăm. Chúng tôi đều đoán già đoán non, chưa biết là ai. Mọi người bàn tán giữa sân thì một đoàn ôtô nối đuôi nhau chạy vào cổng. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi.
Bỗng mọi người cùng reo lên:
- Bác Hồ! Đúng Bác Hồ rồi!
Bác tiến vào giữa tiếng hoan hô reo mừng vang dậy. Trước hết Bác đi thăm xung quanh nhà, rồi đến chỗ ăn, chỗ ngủ của chúng tôi. Đến đâu Bác cũng khen:
- Sạch sẽ thế này là tốt.
Xong, Bác ngoảnh lại dặn mọi người:
- Nhưng chớ để Bác đi rồi thì lại ở bẩn nhé!
Một đồng chí đáp:
- Thưa Bác, bao giờ cũng sạch sẽ thế này đấy ạ!
Bác hỏi tiếp:
- Có đúng không các cô các chú?
- Dạ thưa Bác, đúng ạ!
Riêng tôi, chẳng nói được gì, chỉ biết đi theo Bác, để hôm nào về kể lại tường tận cho bố mẹ và bà con nghe.
Em Bàn Thị Tiến, học ở trường thiếu nhi vùng cao, mặc quần áo dân tộc, chạy lên tặng hoa Bác. Bác xoa đầu, hỏi:
- Người Dao Tiền các cháu học ở đây có đông không?
- Dạ, thưa Bác đông ạ.
- Em ngoảnh ra chỉ vào tôi:
- Chị Quan đứng ở kia cũng là người Dao Tiền đấy ạ.
Bác nhìn sang phía tôi. Tôi cảm động vô kể, và bỗng ân hận là lúc ra tỉnh học không mang theo quần áo dân tộc để mặc trong những ngày long trọng đáng ghi nhớ như thế này.
Bác nói chuyện thân mật cứ như trong gia đình vậy.
Bác hỏi các em ở trường vùng cao có được ăn no không, có được mặc ấm không, đã biết ngủ màn chưa, biết tập thể dục chưa, có nhớ nhà không?...Tôi nhớ nhất Bác dặn điều này:
- Các cháu là cán bộ dân tộc, phải làm sao lo cho đồng bào các dân tộc được ăn no mặc ấm, không tin vào ma quỷ. Muốn thế, các cháu phải công tác tốt. Muốn công tác tốt bây giờ phải học tập thật tốt đã.
Sau đó, Bác phê bình một số anh chị em khi ra tỉnh đua đòi ăn mặc, lúc trở về xã lại nói tiếng Kinh, không chịu nói tiếng mẹ đẻ của mình. Tuy nhiên, Bác không ngăn cấm việc học tiếng các dân tộc khác mà còn khuyến khích. Cuối cùng, Bác dặn:
- “Người dân tộc này phải học tiếng nói của dân tộc khác để hiểu biết nhau, giúp đỡ nhau học tập và sau này nếu đi công tác ở vùng không phải dân tộc mình, cũng làm việc được tốt hơn”.
Trước lúc ra về, Bác bảo:
- Các cô, các chú, các cháu công tác thật tốt, học tập thật tốt, lần sau Bác sẽ lên thăm nữa. các cháu có dám hứa với Bác lần sau Bác lên sẽ có thành tích bằng ba bằng bốn thế này không nào?
- Dạ thưa Bác, có ạ!
Vâng lời Bác dạy, ngày đêm tôi chăm chỉ học tập. Cuối khóa tôi được bầu là học viên giỏi. Riêng về tiếng dân tộc, ngoài tiếng Tày thành thạo, tôi còn học được thêm ít tiếng Cóc Mùn (cũng là một nhánh của dân tộc Dao), Thanh Y…. Và đúng như lời dạy của Bác, nhờ học tiếng dân tộc mà việc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau học tập của toàn trường càng về cuối khóa càng tốt.
Sự chăm sóc của lãnh đạo làm tôi, gia đình tôi, bà con làng bản hết sức cảm động. Lúc đặt chân tới trường y sĩ, tôi đã tự xác định phương hướng học tập rõ ràng. Tôi nghĩ phải học thật giỏi, làm sao xứng đáng với công ơn chăm sóc của Đảng, của Bác.
Trích từ sách: AvoócHồ (Hồi ký), Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1977
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)