Sinh thời Bác Hồ luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí vai trò của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bác từng nhấn mạnh: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”... “Nhân dân ta anh hùng là nhờ có các bà mẹ Việt Nam anh hùng”... “Dân tộc ta và Đảng ta đời đời biết ơn các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và cống hiến những người ưu tú, đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt vời bảo vệ non sông gấm vóc do tổ tiên ta để lại”. Và trong bản Di chúc thiêng liêng Người đã để lại trước khi “từ biệt thế giới này”, Người đã dành cho phụ nữ sự quan tâm lớn lao, Người nhắn nhủ: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.
Để hiểu sâu sắc hơn và trân quý những tình cảm, sự quan tâm đặc biệt của Bác Hồ kính yêu đối với phụ nữ, chúng ta cùng đọc lại những câu chuyện kể về tình cảm, sự quan tâm, trân trọng của Người đối với phụ nữ Việt Nam và phụ nữ quốc tế:
Bác Hồ tặng hoa cho 3 nữ dân quân Quảng Bình, Vĩnh Linh (24/9/1968)
(Nguồn ảnh:www.baotanghochiminh.vn)
Từ Côn Minh đến Việt Bắc
Cuối năm 1944, Hồ Chủ tịch từ trong nước có việc sang Côn Minh. Bác sống ở nhà tôi trong mấy tháng. Bác tới vào một buổi chiều mùa Đông. Cảm giác đầu tiên của tôi là thấy Bác gầy quá. Đôi mắt Bác vẫn trong sáng, hiền từ như thế, nhưng đôi gò má của Bác cao lên. Da Bác không được đỏ, tóc Bác đã bạc nhiều…Bác mặc một bộ quần áo nhuộm chàm phai màu; trời rét, Bác khoác thêm một cái áo bông ngắn sờn vai. Lúc tới, Bác đi đất, đầu đội một cái mũ vải cũng nhuộm chàm.
Nhà tôi là một tiệm cà phê. Hồi ấy tôi chưa được tham gia tổ chức, mới còn là một người cảm tình, nhà tôi là một cơ sở hoạt động của Đảng ở Côn Minh. Tôi thu xếp mời Bác nghỉ trong một căn buồng trên gác, một căn buồng chật hẹp, chỉ đủ kê một cái giường Bác nằm và một cái bàn Bác làm việc, nhưng có một khung cửa sổ. Thu xếp xong chỗ nghỉ cho Bác, chúng tôi soạn lại hành lý của Bác. Việc này phải nhờ mấy anh cùng đi với Bác - anh Phùng Thế Tài và một đồng chí thiểu số lúc ấy tên là Minh. Thực ra cũng chẳng có gì mà soạn. Hay nói cho đúng, những thứ Bác mang theo đều nên bỏ, đều nên thay cả, kể từ cái khăn mặt đến cái ống đựng thịt muối. Cái khăn mặt của Bác nhuộm chàm bạc thếch đã rách gần hết. Đôi giày của Bác mang theo càng rách hơn, Bác đi đến nỗi lòi cả chân ra. Còn ống thịt muối? Hai anh Phùng Thế Tài và Minh ngày ấy còn rất trẻ. Các anh mở nắp ống thịt muối ra, lắc đầu kể lại cho chúng tôi nghe về “món thịt” ấy dọc đường. Các anh bảo đúng ra phải gọi là “muối thịt”, vì thực tình đến chín phần muối mới có một phần thịt. Dọc đường vượt biên giới, mỗi ngày đi bộ, đến nơi phải nấu ăn, người nấu niêu cơm, người đi hái rau rừng, muối ấy và vài miếng thịt bỏ vào nấu canh. Ăn được nhiều, ít, Bác vẫn theo kịp hai anh đường trường, dốc núi. Hành lý của Bác, đáng kể nhất chính là ống thịt muối ấy. Nhưng cả ống thịt muối, chúng tôi cũng bỏ đi, khi nào Bác về sẽ làm ống khác. Nhưng Bác không cho làm thế, không cho vứt bỏ thứ gì cả, Bác bảo: Đồng bào, các đồng chí ở nhà còn khổ, những thứ còn dùng được. Nhất là ống thịt muối, không nên phí phạm. Cùng lắm, Bác mới cho mua cái khăn mặt, và vì công việc cần thiết, Bác mới cho mua đôi giày vải. Lúc nhà tôi đi mua, Bác còn dặn mua đôi ít tiền, bằng vải thường thôi. Chiếc khăn mặt mua về, Bác lại đem nhuộm xanh, còn đôi giày vải, Bác phê bình nhà tôi đã mua một đôi lại kha khá. Đường xa lâu ngày, lại lội suối, leo núi, Bác tới nơi thì mệt. Bác không cho đưa đi bệnh viện, sợ có những việc bất trắc. Bác chỉ cho nhà tôi mua vài ống thuốc tiêm; rồi hàng ngày tiêm cho Bác. Cũng may sao, chỉ một tuần sau, Bác bình phục và bắt tay vào công việc.
Thời gian Bác lưu lại Côn Minh khoảng gần ba tháng. Suốt ba tháng ấy, sinh hoạt hàng ngày của Bác rất nền nếp, đều đặn. Chúng tôi bảo nhau có thể cứ xem lúc nào Bác làm gì là biết mấy giờ, không cần phải xem đồng hồ. Ngoại ô Côn Minh có những con mương dẫn thủy nhập điền, hai bên bờ mương trồng những rặng thông dài, cao vút. Hàng ngày, Bác dậy từ năm giờ sáng, ra đấy tập thể dục. Bác chạy mãi dọc theo rặng thông, lượt trở về, Bác vừa đi, vừa thở… Đến bảy giờ, hôm nào Bác cũng xuống giúp đỡ cửa hàng. Cửa hàng của tôi thường đông khách nhất vào buổi ăn sáng, mấy anh em tôi tất bật không kịp, Bác xuống đứng đỡ ở tủ bánh mì, bán giúp chúng tôi cho đến lúc thưa khách. Khách mua bánh mì hàng ngày, lâu dần đến quen mặt, họ xì xào với nhau: “Không biết Vương Minh Phương tìm đâu được về người cha già phúc hậu thế”.
Thấy Bác gầy quá, chúng tôi muốn chăm lo thức ăn hàng ngày cho Bác, nhưng Bác chả ăn gì. Mỗi sáng, nồi sữa tươi đun lại, nhà tôi hớt lấy váng múc một cốc Bác xơi. Bác dần dần khỏe ra, chúng tôi rất sung sướng nhìn cánh tay Bác rắn chắc. Anh Minh cùng đi với Bác kể chuyện lại có thời kỳ Bác luyện võ, Bác đẽo một hòn đá tròn vừa tay nắm, cứ thế hàng ngày Bác bóp hòn đá trong tay thật mạnh như muốn bóp vỡ ra, đôi khi cả trong lúc làm việc… Những ngày ở Côn Minh, Bác không còn luyện tay nắm đá nữa, nhưng nhìn cánh tay Bác, chúng tôi rất mừng.
Trong thời gian này, nhiều lần Bác và chúng tôi dậy từ bốn giờ sáng. Bác nói chuyện về tình hình, Bác dạy dỗ chúng tôi về đạo đức cách mạng, Bác tiếp xúc với kiều bào, với chính khách; Bác chơi đùa với các cháu thiếu nhi. Có những cháu, Bác chỉ gặp một lượt, nhưng ba năm sau, một lần gặp tôi, Bác còn nhớ tên, hỏi xem cháu đã lớn chừng nào.
Những ngày rảnh việc, chúng tôi mời Bác đi thăm phong cảnh Côn Minh. Đi xa hàng hơn 10 cây số, Bác vẫn đi bộ, từ chối cả ô tô hàng, cả xe ngựa. Có lần chúng tôi mời Bác đi thăm chùa Hoa cách Côn Minh bốn cây số; ở đấy có ngôi chùa cổ, có cả khu vườn rộng mấy mẫu đất, trồng đủ hàng trăm thứ hoa, mùa nở rộ, rực rỡ như cảnh tiên. Lại có lần chúng tôi mời Bác đi thăm chùa Đồng, thăm Hắc Long Đàm, cách Côn Minh hơn 10 cây số. Đó là một cái đầm rộng, người ta đồn đại rằng ngày xưa có con rồng đen xuống tắm. Ở đây cũng có ngôi chùa, lại có gốc thông cổ thụ lớn bằng bốn tay ôm. Bác nghỉ trưa tại đây, dưới gốc thông, Bác ăn cơm nắm với chúng tôi rồi Bác tìm một gốc cây có cành xòa xuống mặt đầm, ken nhau như mắt võng, Bác thả lưng nghỉ trưa. Chúng tôi nhìn Bác nằm, bình dị lạ thường, nhưng trong sự bình dị ấy lại thấy cả một tấm gương sáng của sự rèn luyện, của một ý chí lớn toát ra từ trong từng việc rất nhỏ.
Tôi lại được ở gần Bác từ năm 1947 đến năm 1950. Tôi làm việc ở bên Kinh tế tài chính Trung ương là chính, nhưng công tác chủ yếu ở chỗ anh Cả (tức đồng chí Nguyễn Lương Bằng”. Anh Cả được Trung ương phân công chịu trách nhiệm chăm lo cho Bác. Thỉnh thoảng tôi được các anh bảo vệ Bác đến đón sang chỗ Bác để chăm lo thêm việc ăn uống, sinh hoạt của Bác. Ngoài ra còn có chị Thanh lo việc tiếp tế, đôi khi nấu ăn cho Bác, sau này ở Văn phòng Trung ương. Hồi đó đi kháng chiến thật gian khổ, Bác cũng sinh hoạt như anh em. Ở châu Tự do, Bác cháu trồng được một vườn sắn. Bác ăn chung với anh em. Anh em ăn như thế nào, Bác ăn như thế ấy… Bát của Bác ăn cũng như của anh em, đều làm bằng ống tre cưa. Cuối năm 1947, Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn. Nấu ăn cho Bác lúc này là anh Lộc, được Bác đặt tên là Đồng, bác sĩ Chánh chăm lo sức khỏe cho Bác, được Bác đặt tên là Tâm, sau là Viện phó Bệnh viện Việt-Xô.
Ở An toàn khu, nhà Bác ở là kiểu nhà sàn, rộng khoảng 6m2, Bác ở riêng, anh em bảo vệ ở xung quanh. Năm 1948, tôi ở rừng về tìm cách để Bác ăn riêng. Tôi thưa với Bác: Bác già rồi, ăn chậm hơn chúng cháu, chúng cháu ăn riêng tự nhiên hơn. Bác đồng ý nhưng chỉ có thức ăn là bày riêng còn cơm vẫn nấu chung. Tuy vậy, Bác vẫn ngồi ăn chung với chúng tôi. Bác nói là ăn chung cho vui. Lúc đó cũng chẳng có gì bồi dưỡng cho Bác, chủ yếu là chim chóc do các anh săn bắn được. Anh Lộc nấu ăn cho Bác, thức ăn lúc ấy cũng chỉ có ít thịt kho với muối. Sau đó tôi xin được mấy cái bát và đến nhà máy kiến thiết xin gỗ, làm được chiếc khay để dọn cơm riêng cho Bác. Lúc đầu Bác không đồng ý, Bác bảo: “Tách thế này như quan ấy”. Đối với chị em phụ nữ và các cháu gái, Bác còn chiều hơn con trai. Lúc đầu còn nấu nồi cơm to, sau tìm gạo ngon nấu nồi nhỏ cho Bác. Bác thích ăn thanh đạm, vừa phải, không để thừa…. Bác không chê chúng tôi nấu ăn dở bao giờ, mà Bác thường khen món này ngon, món kia ngon. Thỉnh thoảng tôi tìm gà nấu để Bác ăn, Bác không bao giờ ăn hết, Bác bảo: “Lộc bất tận hưởng”, thường thì Bác để dành thức ăn cho anh em. Sau này biết ý, tôi ninh nhừ gà lấy nước Bác uống. Làm con gà to, Bác phê bình là lãng phí. Bác thích các món đậm đà, dân dã như thịt kho, cá kho. Bác ăn uống rất điều độ, mỗi bữa hai bát cơm. Trời rét Bác không chịu nằm đệm, chỉ đắp chiếc chăn cũ nhuộm nâu, quần áo của Bác đều nhuộm nâu. Bác tự đánh máy, tuy chỉ mổ cò. Văn phòng Trung ương cử một đồng chí sang giúp Bác đánh máy, Bác bảo lãng phí. Đặc biệt Bác rất sợ làm phiền người khác. Bác phê bình thẳng thắn những người gây lãng phí hay làm lộ bí mật. Bác rất coi trọng nguyên tắc. Hồi đầu nhà của Bác không có cửa sổ, chỉ vây vách cao xung quanh. Ban đêm các đồng chí cử người luân phiên nằm ở bên ngoài để trông nom Bác. Sách vở, tài liệu của Bác không có gì, chỉ có một cuốn sổ nhỏ để Bác ghi chép. Chỗ làm việc của Bác là một chiếc chõng tre con, trên để chiếc máy chữ, còn Bác ngồi xệp xuống sàn đánh máy. Nhà sàn của Bác trên là ở, dưới để họp. Bác ở rất ngăn nắp và trật tự. Mỗi loại bút đều có ống tre cắm, Bác ngủ dậy bao giờ chăn màn cũng được gấp vuông vắn. Bác tự mình lau máy chữ. Theo ý Bác, nơi Bác ở bao giờ các đồng chí cũng tìm được chỗ gần suối để Bác tắm cho tiện. Trời rét, Bác vẫn tắm đều vào buổi trưa. Bác đi rất nhanh. Anh Chiến đi cũng không theo kịp Bác. Anh em bảo vệ muốn giữ sức khỏe cho Bác nên khi đi qua đèo De, có chỗ nghỉ sạch sẽ, mát mẻ, đề nghị Bác nghỉ, nhưng Bác không chịu, Bác nói đi chậm là nghỉ rồi. Sau đó anh em bày kế bảo là chúng cháu mệt, Bác mới chịu nghỉ. Chỗ nghỉ cạnh suối, Bác đặt tên là: “Suối đọc báo”. Khi nghỉ trưa Bác chỉ ngả lưng một chút. Mùa rét, Bác dùng chiếc áo ngoài để đắp, Bác bảo: “Như vậy dậy sẽ dễ dàng hơn”.
Bác là người rất bình tĩnh. Hồi còn ở chân đèo De, Bác nuôi một con chó bécgiê, con chó của Sáctông (Chỉ huy lính Pháp ở biên giới năm 1950), nó rất khôn, cứ quấn quít bên Bác. Con chó này ta bắt được ở Chiến dịch Biên giới. Nó thường ngủ dưới gầm giường của Bác. Một đêm nó xuống bếp nằm và bị hổ vồ. Tôi nghe tiếng nó kêu rất rùng rợn, khi đó mọi người đều thức, có người nói với Bác: “Hình như có hổ về bắt chó”, Bác bảo: “Không có gì”. Bác nói như vậy cốt để giữ bình tĩnh cho anh em. Sau đó một lúc, Bác mới bảo đồng chí bảo vệ đi gọi anh Chiến để tìm xem con chó ở đâu. Vào bếp tìm không thấy chó nữa, hổ đã tha đi mất.
Năm 1950, đồng chí Lêôphighe (Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Thư ký Đoàn Thanh niên Cộng hòa Pháp, Phó Chủ tịch Đoàn Thanh niên dân chủ quốc tế) tới thăm và ở với Bác hai ngày. Đồng chí góp ý: “Phải chú ý bảo vệ Bác, ở gần rừng, thú dữ nhiều phải cẩn thận”. Chúng tôi báo cáo với Bác điều đó và xin tăng cường bảo vệ, Bác không đồng ý. Anh em bàn nhau cứ phải cử người canh gác, nhưng không cho Bác biết. Một hôm có một đồng chí tới phiên gác, không may bị ho, thế là bị lộ. Bác dậy, xách ghế ra và bảo: “Chú ngồi xuống đây, đừng đứng mỏi chân”. Nghe đồng chí đó kể lại, chúng tôi cảm động rơi nước mắt.
Bác làm việc và sinh hoạt rất đúng giờ. Các đồng chí Trung ương về họp, trừ việc nấu cơm chúng tôi phải làm, còn việc lấy nước cho các đồng chí dùng Bác cũng miễn cho chúng tôi. Bác đề nghị các đồng chí Trung ương xuống suối rửa mặt. Bác cũng xuống rửa mặt như các đồng chí, Bác bảo: “Tự túc, tự túc”. Trời rét Bác không chịu rửa mặt bằng nước nóng. Bác hay hút thuốc lá, năm 1949, đường tắc nên không có thuốc cho Bác hút, tôi phải tìm cách chế biến thuốc cho Bác. Bác bảo làm cho Bác cái điếu cày để Bác tập hút thuốc lào. Nhưng thuốc lào nặng quá Bác không hút được, thế là Bác có ý định bỏ thuốc.
Chúng tôi thưa với Bác là may áo lụa để Bác mặc. Bác không đồng ý, chỉ mặc áo vải thô nâu. Đồng bào trong nước và các bạn nước ngoài tặng Bác nhiều vải lụa tốt nhưng Bác vẫn không cho may và dùng để làm tặng phẩm cho đồng bào và chiến sỹ có thành tích trong kháng chiến.
Bác ít dùng thuốc để chữa bệnh, Bác rất ghét uống thuốc và dùng thuốc chữa bệnh, Có lần anh Phạm Ngọc Thạch đến khám sức khỏe cho Bác, Bác nói luôn: “ Các chú muốn gì?”. Thế là anh Thạch phải lảng đi và bảo là chỉ đến hỏi thăm sức khỏe của Bác thôi.
Có lần đang đi công tác, Bác bị đau cột sống đến nỗi không đi được, anh em phải cáng về, nhưng khi về đến nhà, Bác bảo với tôi: “Đừng cho ai biết”. Rồi Bác bảo tôi đun ngải cứu với nước tiểu, chườm cho Bác, thế là khỏi.
Những năm 1958, 1959, khi Bác đi công tác hay đi nghỉ ở Trung Quốc, tôi được đưa đến thăm Bác và chăm lo việc ăn uống của Bác. Thấy có nhiều người phục vụ, Bác bảo bớt đi và “phải luân phiên nhau lên ăn cơm với Bác cho vui”.
Năm 1958, khi nghỉ ở Bắc Đới Hà (Trung Quốc), Bác đọc báo biết tin có vệ tinh nhân tạo đầu tiên bay qua vùng trời này vào khoảng 2 giờ đêm. Bác bảo chúng tôi: “Đêm nay ra xem vệ tinh nhé”. Ai cũng nghĩ Bác nói thế thôi, chứ đêm khuya, trời lạnh chắc Bác cũng chẳng xem đâu, nên không chuẩn bị việc đi xem vệ tinh cả. Đang đêm, Bác tới gọi cửa từng phòng, chúng tôi vội vàng trở dậy, chuẩn bị áo ấm cho Bác ra bờ biển chờ xem vệ tinh. Năm phút sau, quả nhiên chúng tôi thấy vệ tinh bay qua!
Trích từ sách: Bác Hồ (hồi ký). Nxb, Văn học, Hà Nội, 1975
Chú Thu
….Năm 1941 chồng tôi hoạt động cách mạng bị đế quốc Pháp bắt giam ở nhà tù Sơn La. Sau đó tôi cũng bị chúng bắt lên đồn, và đang đêm tôi đã tìm cách trốn thoát. Vào núi được vài hôm, tôi cùng với một số đồng chí vượt biên giới sang Bình Mãng ở nhà một số đảng viên Trung Quốc. Tôi ở đấy hơn một tuần thì được anh Trịnh Đông Hải và anh Lê đến thăm rồi đưa tôi đi.
Không rõ đi đâu nhưng vì nguyên tắc bí mật, tôi không dám hỏi. Gần sáng, hai anh đưa tôi về tới lán anh Dương Đại Lâm ở trong rừng Pác Bó. Anh chị Lâm nhận tôi là em. Sáng hôm sau, anh Lâm bảo tôi: “Anh em ta đi gặp ông Cụ”. Anh Lâm dẫn tôi lội theo dòng Khuổi Nậm, nước chảy rất mạnh. Rừng sâu thăm thẳm, tôi cứ bám sát anh. Đi một lúc tới một lán nhỏ dựng bên suối. Trong lán có một ông Cụ mặc quần áo Nùng, trán cao, mắt sáng, râu dài, vẻ người hiền hậu nhưng rất quắc thước. Tôi chưa kịp chào Cụ, Cụ đã bảo: “ À! Cháu đã đến, cháu ngồi đây, chú cháu ra nói chuyện với nhau!” Chưa gặp tôi bao giờ nhưng không hiểu sao ông Cụ lại hiểu rõ hoàn cảnh của tôi. Cụ nói đại ý:
- Cháu bỏ nhà đi làm cách mạng là con đường đúng nhất, vì chỉ có hai con đường: Một là chịu làm nô lệ để Pháp đè đầu cưỡi cổ, hai là đi làm cách mạng đấu tranh cho nguyện vọng của nhân dân các dân tộc, làm cho nước nhà được độc lập, được tự do, bình đẳng, được cơm no, áo ấm, được học hành. Không đánh đuổi thực dân Pháp thì không thể nào có tự do hạnh phúc, vì nước mất thì nhà tan, cháu có muốn ở nhà yên phận làm ăn, chúng cũng chẳng để yên. Chồng sẽ lìa vợ, cha phải lìa con. Nếu không bị bắt, thì cháu làm cũng không đủ nộp thuế sưu. Cháu có nhận thấy thế không? Bây giờ cháu nên nhớ, gia đình cháu là gia đình yêu nước. Ta cứu được nước, thì nhà cửa sẽ còn, hạnh phúc gia đình mới có. Cháu xót xa, chú cũng xót xa, nhưng không được buồn phiền. Phải tin tưởng ở tương lai mà phấn đấu. Chồng cháu sẽ có ngày về….
Khuyên bảo tôi xong. Bác đặt tên cho tôi là Trưng và nhận tôi là cháu: “Từ nay, Trưng là cháu của chú và gọi chú là chú Thu”.
Sao chú Thu lại đặt tên cho tôi là Trưng? Có lẽ Chú muốn nhắc nhủ trong lòng tôi noi gương Bà Trưng, Bà Triệu là những phụ nữ anh hùng của dân tộc ta. Sau đó, chú Thu đưa tôi ba đồng để mua vải may quần áo Nùng, mặc theo lối địa phương cho khỏi lộ. Tôi vô cùng cảm kích. Trước cảnh nhà tan, tôi mạng nặng trong lòng nỗi buồn phiền gần như tuyệt vọng. Nhưng, từ lúc gặp chú Thu, tôi lại cảm thấy như hươu non lạc rừng gặp mẹ. Chú đã giúp tôi trút hết gánh buồn phiền, khiến tôi tin tưởng vào tiền đồ cách mạng và mong muốn hoạt động nhiều hơn.
Từ đó, hàng ngày công việc dù bận đến mấy, chú Thu vẫn dành hai mươi phút để dạy bảo tôi từ việc nấu ăn đến việc học tập chủ nghĩa cộng sản. Hồi còn ở nhà, tôi đã được chồng tôi và các đồng chí cán bộ bí mật tuyên truyền giáo dục, nhưng tôi còn hiểu hời hợt. Gặp chú Thu, nhận thức của tôi về cách mạng ngày một mở rộng và sâu sắc thêm. Chú Thu còn giảng cho về nhiệm vụ của đoàn thể Việt Minh, còn về nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Đông Dương thì Chú giảng rất kỹ.
Đặc biệt Chú giảng cho tôi nhiều, và rất kỹ về vấn đề giải phóng phụ nữ. Tôi còn nhớ rất rõ lời Chú: “Lực lượng phụ nữ chiếm một nửa nhân loại; ở nước ta, phụ nữ chiếm một nửa nhân dân. Nếu không giải phóng phụ nữ thì cách mạng không thể thành công được”.
Học lý thuyết đến đâu, chú Thu lại giao việc cho tôi thực hành ngay đến đấy. Khi báo cáo kết quả, có ưu điểm Chú biểu dương, khuyến khích phát huy, có khuyết điểm, Chú giúp đỡ sửa chữa.
Sau khi nói về nhiệm vụ và kể những mẩu chuyển giáo dục tư cách cao quý của người đảng viên, chú Thu thường hỏi lại tôi: “Cháu có làm được như vậy không?”. Nhiều việc tôi cảm thấy rất khó nhưng đều trả lời: “Cháu làm được ạ!” để có quyết tâm phấn đấu. Tôi nhớ nhất một lần chú Thu kể cho tôi nghe chuyện một nữ đồng chí Hồng quân Trung Quốc được cử về một vùng dân tộc thiểu số để giác ngộ cách mạng cho quần chúng, nhưng vì chưa nắm được phong tục tập quán địa phương nên đã gây trở ngại cho công tác. Phong tục của nhân dân vùng này là quét nhà phải vun rác ở một góc, năm ngày sau mới đem đổ. Chị Hồng quân không hiểu điều đó, cứ quét nhà xong là hót rác đem đổ. Thấy vậy, chủ nhà không bằng lòng, rất lo sợ, nhưng không nói ra. Chẳng may, trong nhà có người chết, chủ nhà cho là tại chị làm cho “ma nhà” nên mới xảy ra tai họa. Tình hình trở nên gay go, chị Hồng quân không hoàn thành nhiệm vụ, phải chuyển đi nơi khác. Sau khi kể, chú Thu căn dặn tôi: Muốn vận động quần chúng làm cách mạng thì phải hòa mình vào quần chúng, tôn trọng phong tục tập quán của họ. Chú Thu lại kể thêm cho tôi nghe một số gương tốt về công tác dân vân khác, đoạn Chú giao cho tôi nhiệm vụ làm thân với chị em phụ nữ làng Pác Bó. Và thông qua chị em mà tìm hiểu hoàn cảnh từng gia đình, làm quen với mọi người trong làng. Chú cho tôi tự định lấy thời gian. Công việc ấy quả thực khó, nhưng nghĩ tới công ơn giáo dục của Chú, tôi mạnh dạn hứa xin một tháng sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Chú Thu gật đầu đồng ý: “Một tháng hơi nhanh, nhưng cháu cứ thử làm xem”. Đúng một tháng sau, tôi hoàn thành nhiệm vụ và về báo cáo với Chú. Ngày hôm ấy, chú Thu dành thời gian nghe tôi báo cáo công tác.
Ngoài công việc Chú còn dành cho tôi tình cảm sâu rộng của một người cha. Thỉnh thoảng, Chú lại hỏi tôi: “Cháu có khỏe không? Cháu thèm ăn gì?”. Có lần tôi trả lời: “Cháu thèm ăn xôi lắm”. Thế là chú Thu bảo đồng chí Lộc đi lấy gạo nếp nấu cho tôi ăn. Tết năm ấy lần đầu tiên xa gia đình, tôi muốn về thăm mẹ, thăm em và bản làng. Nhưng chú Thu không cho về. Chú khuyên: “Bọn mật thám thường giăng lưới bắt cán bộ cách mạng vào dịp này, vì người thân thích thường hay sum họp vào ngày Tết. Cháu về tức là đem thân vào miệng cọp”. Tôi tủi cực quá, nước mắt cứ giàn ra. Chú Thu cũng ngậm ngùi, lấy cho tôi chiếc khăn mùi xoa có hoa đỏ và chiếc còng gà luộc. Chú bảo: “Quà Tết của cháu đây. Cháu lau nước mắt đi rồi ăn còng gà. Ở gia đình cách mạng rồi cháu cũng sẽ vui như được ở nhà mình thôi”.
Chú Thu đã hiểu thấu phong tục của người Tày rất quý con trẻ: Mổ gà bao giờ cũng để phần cho trẻ còng gà. Chú đã nghĩ đến tôi, cưng tôi như cha mẹ cưng chiều con gái vậy. Tôi rất cảm động, càng không ngăn được nước mắt. Chú Thu quay ra làm việc, thấy vậy nhưng không yên lòng, Chú quay lại, nói: “Thôi nín đi, ra giêng Chú cho cháu về. Tình cảm gia đình ai mà không sâu nặng, nhưng vì lợi ích cách mạng, phải biết nén lại mới được!”.
Chú Thu cũng bắt đầu đi công tác xa. Năm 1944, chú Thu trở về. Sau khi sang tới Trung Quốc, bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam, nhưng cuối cùng không kiếm nổi bằng chứng buộc tội, chúng phải thả Chú tự do về nước. Sung sướng biết nhường nào, ở trong nhà tù về, Chú đã chuẩn bị cho tôi một món quà vô cùng quý giá. Đó là quyển Binh pháp Tôn Tử do Chú dịch và đề thơ ở ngoài bìa:
“Vở này ta tặng cháu yêu ta,
Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là.
Mong cháu ra công mà học tập,
Mai sau cháu giúp nước non nhà.”
Binh pháp Tôn Tử, món quà rất hợp với yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang chuẩn bị cho khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ lâu, ngoài các công tác khác, chúng tôi đã tích cực tập quân sự dưới sự chỉ huy của đồng chí Đinh (tức Thiếu tướng Lê Thiết Hùng). Được sách quý, tôi nghiền ngẫm học đến mức thuộc lòng và vận dụng rất bổ ích vào công tác.
Ngày mồng 2/9/1945, Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Vườn hoa Ba Đình. Một niềm vui lớn lại đến với chúng tôi. Chồng tôi đem về một bức ảnh Hồ Chủ tịch. Nhìn ảnh, tôi bỗng ngạc nhiên xúc động:
- Trời ơi! Chú Thu chính là Bác Hồ!
Ngờ đâu Nguyễn Ái Quốc cũng chính là Hồ Chí Minh, là chú Thu kính mến của tôi. Tôi nghẹn ngào vui sướng vô hạn, và riêng đối với tôi, tôi cứ muốn mãi mãi dùng hai chữ chú Thu thân yêu ấy để gọi Bác Hồ…..
Trích từ sách: Avoóc Hồ (Hồi ký), Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1977
Người Hà Nội nhớ Bác
Cả Hà Nội hôm ấy tưng bừng đón ngày tuyên bố độc lập mồng 2/9. Gần 50 vạn người vui mừng kéo tới Quảng trường Ba Đình dự ngày lễ lịch sử trọng đại. Quảng trường chật ních người, cờ, khẩu hiệu, tưng bừng náo nhiệt. Lễ đài đặt trên bục gỗ cao, bên dưới là đội danh dự bồng súng hướng vào Quảng trường.
Tôi đang đứng ở hàng đầu của Đoàn đại biểu phụ nữ Thủ đô, bỗng có tiếng gọi:
- Cô Thi! Lên lễ đài, mau lên!
Tôi giật mình, ngơ ngác, chưa hiểu ra sao. Các chị lại giục - Lên ngay đi! - Tôi vội vàng đi theo người hướng dẫn. Thì ra Ban Tổ chức đang cần một đại biểu phụ nữ Thủ đô, cùng với một chị nữ du kích ở chiến khu về, lên kéo cờ trong buổi lễ lịch sử này. Nhờ vậy mà tôi được nhìn thấy Bác, được nghe Bác nói rất rõ. Từ đó, hình ảnh Bác, đứng dưới lá cờ đỏ sao vàng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, mãi mãi in sâu vào tâm trí tôi.
Chị nữ du kích người Tày và tôi phân công nhau: Tôi cầm dây cờ chuẩn bị kéo, còn chị sẽ nâng lá cờ. Chúng tôi nhìn nhau, hồi hộp, lo lắng về trách nhiệm của mình. Giờ khai mạc đã đến! Đoàn đại biểu của Chính phủ Cách mạng lâm thời bước lên lễ đài, trong đó có Bác. Nhưng tôi đâu dám ngoảnh lại nhìn, vì còn đang tập trung tư tưởng vào dây cờ cầm trong tay. Nhạc Tiến quân ca nổi lên hùng tráng. Chúng tôi bắt đầu kéo. Lá cờ đỏ sao vàng từ từ lên cao rồi tung bay cuồn cuộn trước gió thu lồng lộng, trong ánh nắng vàng rực rỡ.
Làm xong nhiệm vụ, chúng tôi rút về phía sau lễ đài. Bác Hồ bước ra giữa tiếng hoan vô vang lừng cả Quảng trường. Bác giơ tay vẫy chào đồng bào, vừa ra hiệu cho mọi người trật tự và bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn Độc lập: “…Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do…”.
Tôi ngắm nhìn Bác, vừa ngạc nhiên, vừa xúc động. Bác gầy quá, mặc giản dị quá! Bộ quần áo kaki! Quen sống ở Hà Nội, tôi cứ tưởng vị Chủ tịch Nước sẽ phải trịnh trọng trong bộ âu phục sang trọng, thắt cavát, đi giầy vécni bóng nhoáng.
Giọng Bác rất ấm, tiếng Bác khi thì đanh thép tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp trong 80 năm cai trị nước ta, lúc lại xót xa với những nỗi khổ cực mà nhân dân ra đã phải chịu đựng. Bất ngờ, Bác hỏi:
- Tôi nói đồng bào nghe rõ không?
Ngay những phút đầu tiên, Bác đã để lại cho tôi những ấn tượng hết sức sâu sắc về một tấm lòng thương yêu nhân dân không bờ bến, một ý chí cách mạng kiên cường và một sự trong sáng, giản dị trong nếp sống.
Bác kết thúc bản Tuyên ngôn bằng một lời tuyên bố: “Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập” và một lời thề cương quyết: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Cả Quảng trường vang lên tiếng hô đáp lại: Việt Nam độc lập muôn năm! Ủng hộ Mặt trận Việt Minh! Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!
Năm 1950 tôi được cử đi dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ I. Tôi lại được vinh dự gặp Bác Hồ đến thăm Đại hội!
Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Lần đầu được nghe Bác đọc thơ….
Ngựa chờ cửa rừng cúc….
Mà mình còn cắn bút
Anh hùng nhiều như cây.
Viết ai, ai chửa viết?....
Nguyễn Tuân đi từ mé phải hội trường Đại hội dân quân toàn quốc lần thứ nhất (12/1945 tại Việt Bắc) đến bên bàn viết của tôi. Tay anh gõ gõ tẩu thuốc, mắt nhìn vào trang giấy nguệch ngoạc mấy câu thơ trên, anh thủng thẳng nói:
- Này, không phải lúc làm thơ “tự trào” đâu nhé. Bà không thấy anh em viết xong cả rồi à?
Tôi nhìn ra khu vực tập trung văn nghệ sĩ để viết về những tấm gương chiến đấu dũng cảm của dân quân. Trên mấy cái bàn tre, ghế tre, còn tươi màu xanh của rừng núi, anh Nguyễn Huy Tưởng với nụ cười hiền lành, tươi tỉnh, tay vê vê điếu thuốc lào, bên cạnh Nguyên Hồng vừa chùi nước mắt chảy dài trên đôi má rám nắng, vừa hút cái điếu cày bằng ống bương to tổ bố. Bác Ngô Tất Tố với dáng điệu thư sinh, khăn đóng áo the, đang ung dung ngồi lau mục kỉnh. Nguyễn Đình Thi tay xoa xoa hàm râu quai nón lởm chởm. Kim Lân gầy gò, ngồi gù gù mà như gật gù trước trang viết… Rõ ràng “các vị ấy” đã viết xong cả rồi. Nguyễn Tuân lại hạ giọng vẻ bí mật:
- Bác đang chờ… Không phải cứ thấy anh hùng “nhiều như cây” mà bà kéo dài thời gian mãi được đâu.
Tôi cũng sốt ruột, nhưng viết ai bây giờ? Ai về đến Đại hội này cũng đều có thành tích. Tôi cứ mê lên vì nghe chuyện họ. Đây là lần đầu tiên được sống với những anh hùng thời đại, muốn viết được về họ, tôi phải suy nghĩ, cảm xúc và nhập thần vào được nhân vậy, thì viết mới hay. Nhưng các gương chiến sỹ, các anh viết cả rồi. Tôi bỗng nhớ tới một anh tự vệ Thủ đô, khi tôi hỏi về thành tích chiến đấu của anh, anh không nói gì về mình, mà kể chuyện một chị phụ nữ bế con theo đoàn quân rút khỏi Thủ đô kháng chiến. Khi cả đoàn quân dân qua dưới gầm cầu sông Cái, thì con chị khóc, sợ bị lộ, giặc sẽ bắn vào anh em, chị phải bóp mũi con cho đến chết để cứu đoàn quân. Câu chuyện thật xúc động. Đó là lần đầu tiên tôi thấy được tình cảm mới, lớn rộng của một người mẹ, đã được giác ngộ bởi lòng yêu nước và chí căm thù giặc, mà chỉ ở thời đại Hồ Chí Minh mới có được.
Lòng cảm xúc dạt dào, tôi thôi cắn bút và viết một mạch, xong bài thơ Lòng mẹ theo thể năm chữ, 14 khổ, kể lại câu chuyện đầy xúc động trên đây. Chấm xong câu cuối cùng, tôi định đưa Nguyễn Tuân xem, anh xua tay:
- Ngựa đang đập móng trước cửa rừng kia kìa…
Tôi vội cầm nguyên cả trang viết đưa đồng chí liên lạc. Nguyễn Tuân thở một hơi khói qua tẩu thuốc rồi đủng đỉnh nói: “Ngựa phi đến Bác, bài thơ của bà chưa ráo mực đâu”. Có một buổi, Bác Hồ đến cơ quan phụ nữ Trung ương. Các chị đi công tác vắng, chỉ có tôi và chị Liên đón Bác. Chị Liên giới thiệu tôi, Bác nhìn tôi một phút, rồi nói:
- Bác đã đọc bài thơ Lòng mẹ, biết đích thực là ngòi bút con gái, chứ không phải là ngòi bút con trai giả danh.
Mọi người đều bật cười. Bác bảo tôi đọc lại bài thơ đó cho mọi người cùng nghe. Tôi đọc xong. Bác ngoảnh lại, bảo mấy anh tùy tùng:
- Các chú phải hát để “đáp lễ” cô ấy đi.
Nhưng các anh chỉ cười, không ai chịu “đáp lễ”. Bác bảo:
- Thế là con trai thua con gái rồi.
Đoạn Bác nhìn tôi:
- Thơ cháu đi được vào tình cảm lớn rộng của chị em như thế là tốt; nhưng nên ngắn, gọn hơn để chị em dễ nhớ.
Bao nhiêu năm qua, tôi vẫn đinh ninh và cố gắng làm theo lời Bác dạy. Nhưng cũng bao nhiêu năm qua rồi, chẳng có dịp đẹp đẽ nào để tôi cùng các bạn đồng nghiệp được gửi theo vó ngựa những sáng tác dâng lên Bác, như cái thuở ban đầu kháng chiến, ở giữa vòm xanh trùng điệp của núi rừng Việt Bắc xa xưa.
Trích từ sách: Người là Hồ Chí Minh (Tập Hồi ký), Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995
Muôn vàn tình thân yêu dành cho các cháu gái
Lúc ấy, cuộc đấu tranh cách mạng vô cùng phức tạp mà trong cán bộ viết báo chúng tôi thì còn nhiều người rất non trẻ cần được sự hướng dẫn thường xuyên. Cho nên việc được gọi đi họp, dù là họp ở Bắc Bộ phủ, cũng vẫn là một sự việc bình thường. Cuối cùng, mới vỡ nhẽ ra là chúng tôi được một niềm hạnh phúc mà trước đó chẳng bao giờ tôi dám mơ ước. Và việc đó đã trở thành thường lệ: Hàng tuần chị Thanh Thủy và tôi được vào Bắc Bộ phủ, được nghe Bác hướng dẫn cách sử dụng báo chí, đối phó với muôn vàn khó khăn, khi Nhà nước ta còn non trẻ mà thù trong giặc ngoài thì nham hiểm, hống hách, trong tay sẵn súng, sẵn đạn. Những từ “chiến lược”, “sách lược”, “yêu nước” không còn là những từ trừu tượng, tôi nhớ là tôi không hề được nghe Bác nói những từ chính trị mà chúng tôi rất sính dùng lúc bấy giờ. Bằng những lời phân tích dễ hiểu, Bác làm cho chúng tôi thông suốt và đem hết nhiệt tình ra giải thích chủ trương của Đảng cho người khác, cũng như khôn khéo đấu tranh với địch bằng những lý lẽ xác đáng như những sợ lạt mềm, cứ thít chặt, thít chặt cổ quân thù lại.
Một điều Bác dạy bảo mà suốt đời tôi không bao giờ quên là: Báo chí là đại biểu cho dư luận, phải giúp Chính phủ đạt được thành công trong các chính sách đối nội, đối ngoại. Sau này những lúc tình hình cách mạng có chuyển biến mới, người làm báo phải suy nghĩ nhiều. Câu nói của Bác giúp tôi nhớ tới vị trí và tính chất của báo chí ta. Nhưng đâu có phải Bác chỉ dạy cho báo chí làm nhiệm vụ, đấu tranh chính trị. Một lần, Bác hỏi chị Thanh Thủy và tôi: “ Các cô đã có con chưa? Các cô biết bế con, nuôi con chưa? Làm báo Phụ nữ không phải nói chính trị suông, giải phóng phụ nữ chung chung mà còn phải hướng dẫn cho chị em cách nuôi con, dạy con, chăm lo việc gia đình”.
Tấm lòng Bác thương yêu cán bộ nữ viết báo không chỉ biểu hiện ở chỗ Bác dạy cho chúng tôi về nghề nghiệp. Bác còn rất quý chúng tôi, ngày 19/5/1946, lần đầu tiên mừng Ngày sinh nhật Bác được tổ chức. Như mọi người, chúng tôi rất muốn vào chúc mừng Bác. Nhưng chúng tôi nghĩ, đây là ngày lễ lớn, chỉ các vị Bộ trưởng, các đại diện đoàn thể, có cống hiến nhiều cho cách mạng thì mới nên đến chúc mừng Bác, còn chị em chúng tôi, những người cán bộ bình thường thì cứ cố làm công việc của mình, hàng tuần được gặp Bác đã là hạnh phúc lớn rồi, và chúng tôi không dám đến. Ngày hôm sau, có cuộc họp báo. Anh Cù Huy Cận cho chị Thanh Thủy và tôi biết hôm qua Bác bảo thế nào báo Phụ nữ cũng vào và Bác đã để phần bánh cho chúng tôi.
Sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cơ quan Hội Liên hiệp phụ nữ Trung ương rời Hà Nội lên Việt Bắc. Lần đầu tiên trong đời mình, những người cán bộ nữ, phần lớn là mới hơn 20 tuổi, đứng ra tổ chức một cơ quan. Đến chỗ mới, chưa quen khí hậu, chúng tôi sốt rét luôn. Chưa biết chỗ trồng trọt và chăn nuôi, chúng tôi chẳng có mấy thức ăn trong bữa cơm. Sức khỏe chúng tôi sút trông thấy. Lúc ấy con đường từ chỗ Bác đến Phủ Thủ tướng đi qua chỗ cơ quan chúng tôi, Bác đi họp, ghé vào, thấy chị em trong cơ quan xanh xao, Bác rất thương. Những hôm sau, Bác gửi cho chúng tôi khi thì rau, khi thì dứa. Một lần, vào buổi chiều, Bác đến cơ quan, theo sau có mấy đồng chí, người mang máy thu thanh, người mang họa báo. Máy thu thanh hôm ấy bị trục trặc về kỹ thuật, không nói được. Bác đã lấy họa báo ra kể cho tất cả chị em cơ quan nghe về đời sống phụ nữ Liên Xô, về cuộc đấu tranh của phụ nữ Pháp ủng hộ cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta…. Chị em trong cơ quan hỏi Bác nhiều điều. Bác trả lời cả những câu hỏi nhỏ nhặt nhất: “Tại sao trong họa báo Liên Xô lại thấy có ảnh nhiều chị em để tóc dài? Có phải là sau khi vận động phụ nữ cắt tóc ngắn rồi lại phải vận động phụ nữ để tóc dài hay sao?”. Bác trả lời đại ý: Sau Cách mạng Tháng Mười, Liên Xô có rất nhiều khó khăn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng cuộc sống mới. Phụ nữ phải đem hết mình ra chiến đấu và sản xuất, cho nên chị em ăn mặc giản dị, tóc cũng cắt ngắn để đi làm cho gọn. Bây giờ, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã nhiều năm, nền kinh tế đã được khôi phục và phát triển, đời sống được nâng cao, phụ nữ đã có thể trang điểm cho thêm đẹp, ai cho rằng để tóc dài đẹp và không vướng víu gì trong sản xuất thì cứ để.
Một lần, Bác từ chiến trường Tây Bắc về, tạt vào cơ quan Hội Phụ nữ. Ta vừa chiến thắng, Bác rất vui, Bác nói: Các cô ở nhà có tiến bộ không, Bác đi công tác ở mặt trận, tiến bộ nhiều lắm. Thầy học của Bác là bộ đội, là dân công, là nhân dân. Bác bảo Bác có quà cho các cô, nhưng phải đoán đúng thì Bác mới cho. Chúng tôi, người đoán là kẹo, người đoán là bánh, có người lại đoán là nước hoa… Bác chỉ cười. Cuối cùng Bác đưa ra, mới biết đó là mấy hộp dầu cao. Bác bảo mùa rét sắp tới, Bác cho các cô để dùng cho khỏi bị cảm lạnh. Hồi ấy, tiết trời đã sang đông, chị em mới học đan được kiểu mũ người đi núi, đội ấm cả đầu và cổ, nhiều người đã đan gửi cho chồng. Trông thấy Bác đầu trần, chị Thanh Hương hỏi Bác đã có mũ chưa, Bác trả lời là có rồi. Chị Thanh Hương xin xem rồi lại xin Bác đội lên. Quả tình cái mũ vừa cũ vừa không đẹp. Chị Thanh Hương chê là xấu lắm! Bác bảo: “Chẳng biết các cô đan đẹp thế nào mà chê mũ của Bác xấu”.
Tối hôm ấy, chị em bàn nhau phải đan biếu Bác một cái mũ thật đẹp. Chị Mỹ Hảo, người khéo tay nhất bấy giờ được chị em giao cho công việc ấy. Chị đan một mạch đến khuya thì xong. Vốn biết Bác có vật gì quý đều đem thưởng bộ đội hoặc biếu các cụ phụ lão, chúng tôi lo rằng cái mũ cũng sẽ không được Bác dùng.
Chúng tôi bàn nhau là phải viết thư gửi theo thưa với Bác là cái mũ này các cháu mỗi người đan mươi hàng, biếu Bác, mong Bác giữ mà dùng, may ra Bác nể tình mà giữ lại. Bẵng đi một thời gian, một hôm chị Thanh Hương và tôi lại được dự một cuộc họp. Bác đến, tất cả đại biểu nữ, như thường lệ, được gọi lên ngồi ở hàng ghế đầu. Chúng tôi nhìn lên Chủ tịch Đoàn thấy Bác rút trong túi ra cái mũ len chúng tôi gửi biếu, chúng tôi rất sung sướng.
Môt hôm, Bác đem đến cho ba cái áo len. Chị Hoàng Thị Ái bấy giờ phụ trách cơ quan không dám nhận và thưa là để Bác cho các chiến sĩ có công. Bác bảo: “Bác có cho các cô đâu mà các cô từ chối. Đây là Bác cho các cô để bảo các cô biết cách trọng người già. Một cái các cô biếu Bác Tôn, một cái các cô biếu mẹ liệt sỹ Bùi Thị Cúc, còn lại một cái để dành đấy, khi cần thì có tặng phẩm mà dùng”.
Tất cả sự săn sóc của Bác động viên chúng tôi phấn đấu vươn lên. Cơ quan dần dần đươc tổ chức ngăn nắp, vườn rau xanh tốt quanh năm và có cả một ruộng ngô. Nhưng tôi nghĩ đối với tất cả cán bộ nữ được Bác quan tâm chăm sóc lúc bấy giờ, điều quý báu nhất mà chị em giữ được là: Lòng thiết tha đi sâu vào thực tiễn đấu tranh cách mạng. Tìm ở đấy những bài học cho công tác, chị em luôn luôn suy nghĩ chăm nom đời sống phụ nữ, nhi đồng cũng như luôn nghĩ tới các bậc phụ lão đáng kính.
Năm 1952 có Đại hội liên hoan các anh hùng, chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất và Hội nghị bàn về chiến tranh du kích. Sau hai cuộc họp lớn đó, mọi người náo nức khen ngợi hai bản báo cáo của Anh hùng Nguyễn Thị Chiên và của chị Phạm Thị Nhật, Bí thư Chi bộ. Một hôm, được Bác đến thăm cơ quan, chị em chúng tôi đều nói đến hai bản báo cáo ấy. Bác hỏi: “Các cô có biết vì sao mà báo cáo của các cô ấy hay không?”. Chị Đinh Thị Cẩn thưa: “Đó là do chị Chiên, chị Nhật đều lăn lộn, xông pha nhiều trong thực tiễn chiến đấu cho nên mới nói lên sự thật rất sinh động. Bác vừa cười vừa nói: “Đúng là như thế, nhưng không phải chỉ có thế. Các bản báo cáo ấy hay còn là do không có sự sửa chữa, thêm thắt của nhiều người khác…”. Tôi suy nghĩ rất nhiều. Câu nói ý nhị của Bác nhắc nhở tôi mỗi khi sử dụng hoặc biên tập lại bài của thông tin viên, bạn đọc trong đông đảo nhân dân, phải luôn luôn cố gắng ghi lại đúng đắn, trung thực những lời nói, những ý nghĩ mộc mạc, giản dị của những con người trong thực tiễn sản xuất và chiến đấu, những lời nói, những ý nóng hổi hơi thở của cuộc sống cách mạng, không thể tùy tiện sửa đổi thêm bớt theo ý nghĩ chủ quan của mình.
Những buổi được nghe Bác dạy bảo cách bây giờ đã hai, ba chục năm, tôi vẫn tưởng như mới nghe thấy tiếng Bác hôm qua. Bác đã về với Mác - Lênin vĩ đại, để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn Đảng, toàn dân, trong đó có những người cán bộ nữ và những người viết báo nữ.
Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)
Hình ảnh Bác Hồ
Hồi ấy, vào mùa Xuân 1946, tôi ở trong Ban Chấp hành Đoàn Phụ nữ cứu quốc tỉnh Bến Tre. Ban Chấp hành phụ nữ giao cho tôi nhiệm vụ tổ chức một Đoàn gồm các mẹ, các chị, cùng một số nữ thanh niên ra hỏa tuyến chúc Tết bộ đội. Tôi đang say sưa làm công tác thăm hỏi bộ đội thì có lệnh Tỉnh ủy gọi về. Tôi được nhận nhiệm vụ mới, rất đặc biệt, hoàn toàn không ngờ tới. Tôi được cử đi trong phái đoàn Nam bộ ra miền Bắc báo cáo với Hồ Chủ tịch và Chính phủ về tình hình sau Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và xin vũ khí trang bị cho Nam bộ. Bước chân xuống đất Hà Nội, lòng tôi xôn xao, rạo rực.
Chiều tháng 5. Nắng hè rực rỡ. Chúng tôi đang ngồi chuyện trò thân mật tại nhà anh Đặng Thai Mai, hồi đó là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, thì nghe thấy tiếng ôtô đậu trước cổng. Một ông già phúc hậu, người dong dỏng cao, thoăn thoắt bước vào. Đúng là Bác rồi! Giống hệt như trong ảnh mà tôi đã thấy. Tôi đứng im nhìn Bác. Ôi! Ước mơ của tôi ngờ đâu sớm thành sự thực.
Lần đầu tiên gặp Bác một cách rất bất ngờ, tất cả chúng tôi hết sức cảm động bởi đôi mắt của Bác, đôi mắt sáng ngời, đầy chí kiên quyết, nhưng đồng thời cũng thân thương, trìu mến, hiền hậu vô biên…
Bác ung dung, tươi vui trong bộ kaki giản dị, Bác cười niềm nở và bắt tay từng người rồi ngồi bên cạnh tôi. Gặp Bác! Chúng tôi vừa xúc động trước tấm lòng thương yêu chăm sóc của Bác, vừa sửng sốt và bối rối. Bác hỏi thăm sức khỏe từng đồng chí trong Đoàn. Nhưng tất cả đều nghẹn ngào, không ai thưa với Bác được một lời. Những ngày đi đường, anh chị em trong Đoàn bàn nhau chuẩn bị gặp Bác sẽ báo cáo những gì. Riêng tôi cũng sắp xếp trong óc những điểm về tình hình của phụ nữ Nam bộ để báo cáo với Bác. Nhưng đến lúc Bác cho tôi được nói trước, thì bao nhiêu điều đã chuẩn bị để báo cáo với Bác biến đi đâu mất.
Thấy tôi vẫn chưa hết xúc động, Bác cười vui và gợi từng ý để tôi có thể nhớ mà báo cáo lại. Bác nói dịu dàng, lòng tôi như ấm lên. Tôi bình tĩnh dần và lắng nghe từng câu hỏi cặn kẽ của Bác mà báo cáo. Giọng tôi lúc đầu hơi run, nhưng sau thì mạnh bạo hẳn lên. Tôi báo cáo rành rọt từng sự việc.
Bác chăm chú nghe chúng tôi báo cáo. Bỗng hai giọt nước mắt chảy trên gò má Bác. Ôi! Suốt đời, tôi không bao giờ quên những giọt nước mắt ấy. Những giọt nước mắt của Bác đọng lại mãi mãi trong tâm hồn tôi. Tôi nghĩ đó là cả một biển tình thương bao la của Người dành cho đồng bào Nam bộ.
Bác nhìn chúng tôi rất trìu mến và giọng Bác ấm áp:
- Đồng bào và chiến sĩ đang ra sức khắc phục khó khăn, thiếu thốn để kháng chiến. Chính phủ và đồng bào cả nước sẽ hết sức cùng chiến sĩ và nhân dân Nam bộ hiện đang anh dũng đấu tranh để giữ vững độc lập dân tộc. Chúng ta nhất định thắng lợi, vì chúng ta có sức mạnh đoàn kết của toàn dân. Chúng ta nhất định thắng lợi, vì cuộc đấu tranh của chúng ta là chính nghĩa.
Chiều hôm đó, gia đình anh Đặng Thai Mai làm cơm mời Bác và chúng tôi. Chúng tôi sửa soạn kê bàn, xếp ghế để dọn cơm. Anh Tư Thỉnh và anh Chín Nghiệp đang bố trí lại chiếc bàn ăn, thì Bác đi tới đỡ một tay. Nhìn bác sĩ Nghiệp - anh cao gần 1 mét 80, nặng 75 - 76 ki-lô, Bác nói: “Người Việt Nam ta ai cũng to, cao như chú thì tốt quá!”. Chúng tôi vui sướng được ăn cơm với Bác. Bữa cơm gia đình thật thân mật, ấm cúng. Trong bữa ăn, Bác hỏi chúng tôi rất nhiều chuyện về Nam bộ. Bác hỏi cả chuyện học hành và sinh hoạt của anh chị em cán bộ, chiến sĩ. Đồng chí Trưởng đoàn báo cáo cụ thể với Bác về tình hình sau Hiệp định sơ bộ 6-3 và các mặt khác. Bác lại hỏi chuyện riêng mỗi người chúng tôi.
Bác quay sang tôi hỏi tiếp:
- Trong ấy, thiếu thốn súng đạn lắm. Các cô, các chú muốn xin bao nhiêu khẩu mang về?
Thật là Bác đã nói đúng điều quan trọng nhất mà các đồng chí lãnh đạo ở Nam bộ đã dặn đi dặn lại mãi trước khi chúng tôi lên đường ra Hà Nội.
Quả Bác là người Cha đã hiểu thấu tâm tình của con. Tôi báo cáo với Bác:
- Dạ thưa Bác, thiếu lắm.
Bác nói thong thả:
- Thế nào Trung ương và Chính phủ cũng có súng gửi vào Nam. Nhưng nước ta còn nghèo, các cô các chú về phải đánh Pháp cho giỏi, cướp lấy súng của nó mà dùng thì mới có nhiều vốn.
Bác và chúng tôi đều cười tin tưởng.
Bác nói tiếp:
- Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Lần thứ hai, Đoàn chúng tôi đến chào Hồ Chủ tịch ở Bắc Bộ phủ, Bác vẫn đón tiếp chúng tôi thân mật như người trong gia đình. Ít hôm sau, chúng tôi lại được vinh dự thay mặt cho nhân dân Nam bộ đến mừng sinh nhật Bác ngày 19-5. Trìu mến nhìn chúng tôi, Bác nói:
- Tôi cảm ơn các cô, các chú Nam bộ. Thật ra các báo ở Thủ đô trong dịp này đã làm to Ngày sinh nhật tôi. Hiện nay nước ta đang có nhiều khó khăn.
Giọng Bác càng xúc động:
- Các cô, các chú về báo cáo với nhân dân miền Nam thân yêu rằng: Lòng già Hồ, lòng nhân dân miền Bắc lúc nào cũng ở bên cạnh đồng bào Nam bộ.
Nói xong Bác khóc. Chúng tôi đều khóc!
Sau một thời gian làm việc ở Thủ đô Hà Nội, tôi trở về Nam. Các anh trong Đoàn còn ở lại miền Bắc công tác lâu dài hoặc làm thêm một số việc nữa rồi về sau. Chỉ có mình tôi nhận súng, tiền và tài liệu của Trung ương mang về Nam bộ.
Chín năm kháng chiến, bản thân tôi đã nhiều lần suýt chết. Nhưng mỗi lần gặp gian nguy, thậm chí có những lần mặt đối mặt với kẻ thù, tôi lại thấy hình ảnh Bác hiện rõ trong tâm trí mình. Bác đã truyền cho tôi sức mạnh phi thường. Nhờ đó, tôi đã vượt qua không biết bao nhiêu đoạn đường chông gai, thử thách…
Năm 1968, tôi vô cùng cảm động nhận món quà quý của Bác. Chiếc lược làm bằng mảnh xác máy bay giặc Mỹ, bị bắn rơi trên miền Bắc. Bác gửi lược cho cả hai cháu Châu và Quyên nữa. Chiếc lược đơn sơ mà sáng đẹp làm sao. Dòng chữ “Không có gì quý hơn độc lập tự do” tươi nét trên mặt kim loại trắng như nhắc nhở chúng tôi luôn luôn làm theo lời Bác. Cuối năm 1968, Bác lại gửi cho tôi chiếc Huy hiệu có hình ảnh của Người. Vinh dự và cảm động biết bao khi đeo chiếc Huy hiệu Bác lên ngực áo, bên trái tim mình. Tôi hiểu đây là phần thưởng cao quý của Bác dành cho phong trào phụ nữ miền Nam. Tôi hứa cố gắng không ngừng để xứng đáng với Bác, với đồng bào miền Nam yêu quý.
Đeo Huy hiệu Bác Hồ trên ngực, tôi thấy như lúc nào cũng có Bác ở bên mình. Bác luôn luôn nhắc nhở, động viên tôi.
Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Các cô cứ cố gắng, đã có Đảng giúp
Năm 1928 tôi tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Năm 1930 tôi dự lễ tuyên bố thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương tại một gian nhà nhỏ phía sau đường lên ga Vinh. Tôi có nghe nói đến việc thống nhất được ba nhóm cộng sản nhưng chỉ biết có sự chủ trì của “đồng chí xuất dương” chứ chưa biết rõ tên họ đồng chí đó. Ngày 1-5-1930, chúng tôi được nghe lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ đó, cái tên Nguyễn Ái Quốc là nguồn động viên tôi phấn đấu vượt qua mọi khó khăn gian khổ trước sự tra tấn dã man của mật thám Pháp, và trong những nhà tù của bọn đế quốc, phong kiến. Cái tên Nguyễn Ái Quốc đem đến cho tôi lòng tin tưởng chắc chắn vào thắng lợi cuối cùng. Cách mạng Tháng Tám thành công, tôi nóng lòng mong mỏi được thấy Bác. Tôi định làm theo kế hoạch của chị Lê Thị Quế, đánh liều mua ít cam ra tận Hà Nội, xin vào thăm Bác. Tôi lại định chở gạo chống đói ra Bắc nộp, may ra được gặp Bác chăng. Ai cũng cười, tôi chẳng dám đi. Cho đến ngày Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất (tháng 3-1950), sau 20 năm mong mỏi tôi mới được thực hiện điều mong ước nói trên. Đại biểu chẳng ai bảo ai, nhưng mọi người đều tin chắc rằng thế nào Bác Hồ cũng đến thăm Đại hội. Ai cũng biết là Bác đến kiểu “du kích”, nhưng ai cũng cố chuẩn bị thật sẵn sàng về mọi mặt. Nhất là nếu được Bác hỏi đến thì phải thưa với Bác thật đầy đủ về phong trào phụ nữ địa phương mình.
Riêng tôi, vừa được chỉ định thay chị Hoàng Ngân làm Bí thư Đảng đoàn phụ nữ Trung ương từ cuối năm 1949, tôi rất lo. Tôi lo công việc Đại hội chưa chu đáo, tôi cũng mừng vì sắp được gặp Bác. Tôi cố đoán xem Bác sẽ đến khi nào, Bác đi một mình hay đi cùng với những đồng chí nào. Tôi chú ý các lối vào Đại hội để Bác đến là có thể thấy ngay. Tôi hồi hộp quá, không thể ngồi yên, cứ muốn sửa cái này một tý, xếp lại cái kia cho dễ coi hơn, bàn với đồng chí này một chút, nói với đồng chí khác một điểm… Một buổi trưa nắng ấm, các đại biểu đang còn nghỉ thì Bác đến. Các khu Đại hội bật dậy. Bác đến! Bác đến! Mọi người vừa reo vừa chạy ra sân hội trường đón Bác, không còn ai giữ nổi “trật tự” nữa. Và tôi là người đến chậm nhất. Tôi chỉ kịp nhận ra rằng Bác đi ngựa tới, cùng đi với Bác có năm, sáu đồng chí nữa. Bác mặc áo kaki, ngoài khoác áo choàng ngắn. Bác đi từ phía cuối vào. Mọi người cứ chờ Bác, thế mà khi Bác tới thì lại sửng sốt, ngơ ngác. Bác bình dị quá. So với ảnh Bác chụp khi nhân dân ra mới giành được chính quyền, Bác có gầy đi chút ít. Nhưng Bác rất vui và nhanh nhẹn.
Bác xuống ngựa. Mọi người quây quanh Bác. Chị Điều Thị Hảo, mặc kiểu dân tộc gọn gàng, có gương mặt tươi hồng của những cô gái vừa lớn lên, đứng cạnh Bác. Bác hỏi:
- Cô ở Việt Bắc hay Tây Bắc?
- Thưa Bác, cháu là người dân tộc Thái ở khu Tây Bắc ạ.
Bác gật đầu rồi quay sang hỏi cô Nga:
- Cô là đại biểu khu nào?
- Dạ thưa Bác, cháu ở khu IV ạ!
Nghe giọng nói quê hương, Bác hỏi tiếp:
- Nghệ An hỉ?
Cô Nga thấy Bác nói trúng tiếng quê mình, mừng quá, đáp ngay.
- Dạ phải.
Bác lại hỏi:
- Huyện mô?....
Thấy cụ Triệu đứng mãi ngoài xa, không chen được với các đại biểu trẻ để đứng gần, Bác hỏi với ra:
- Cụ là đại biểu khu nào?
- Thưa, khu X.
Bác hỏi tên tỉnh, cụ Triệu nói rõ:
- Thưa, Phú Thọ.
Lúc ấy có chị Hồ Thị Minh đi dự Hội nghị phụ nữ châu Á về cùng dự Đại hội với chị Hồng, chị Phương, đại biểu phụ nữ Nam bộ mới vượt Trường Sơn ra Bắc. Bác cười rất hiền. Bác rất vui, chòm râu rung rung. Bác thương các cháu gái miền Nam xa xôi, người thì vượt núi trèo đèo, người thì vòng quanh quả đất cũng đều về được Việt Bắc.
Bác dự Đại hội, lắng nghe các đại biểu phát biểu ý kiến. Lúc nghỉ, Bác ân cần hỏi han từng người. Bác dành hẳn một buổi giải đáp các câu hỏi của các đại biểu. Chị em thẳng thắn hỏi tất cả những điều mình chưa rõ. Bác trả lời rất sáng rõ và thân thiết.
Bác hỏi các đồng chí trong Đảng đoàn về tình hình công tác phụ nữ, về việc chuẩn bị Đại hội và cả về tình hình sức khỏe, tình hình gia đình từng người. Bác nhìn chúng tôi như mẹ nhìn con. Một số chị em không khỏe lắm, Bác rất thương. Bác hỏi chị em nỗi lo lắng về công việc và cả hoàn cảnh riêng của mình, Bác nghe rất thương. Số chị em trong Đảng đoàn lúc ấy cũng ít. Bác dạy: “Các cô cứ cố gắng, các cô chú ý giữ gìn sức khỏe, còn công tác thì có Đảng giúp”… Những lúc không họp ở hội trường, Bác chỉ bảo từng ly từng tý và động viên mọi người. Trong các buổi nghỉ giải lao, Bác gọi từng đoàn đại biểu ra chụp ảnh với Bác. Chị em Liên khu IV đóng kịch diễn lại cảnh bà cụ nông dân nghèo khổ ở vùng bị địch chiếm, bọn lính thực dân Pháp và lính ngụy đến cướp thóc gạo và đánh đập đồng bào rất tàn nhẫn. Bác ứa nước mắt. Sau này, mỗi khi tôi đi dự các cuộc họp, được gặp Bác, Bác hay bảo tôi báo cáo Bác nghe về tình hình phong trào phụ nữ. Công tác phụ nữ có rất nhiều khó khăn, nhưng sự chăm sóc của Bác động viên tôi rất nhiều.
Hồi ấy, hàng năm cứ rơi vào vụ thu đông thì các cơ quan lại chuyển lên phía trên, ở các vùng giáp giới Tuyên Quang - Hà Giang hoặc Thái Nguyên - Bắc Cạn. Cuối năm 1950, cơ quan Hội Phụ nữ chúng tôi cũng rời đồi Hoàng Ngân (Định Hóa). Chúng tôi đi gọn nhẹ, những thứ không cần thiết thì để lại, cử chị Phái trông nom. Một hôm Bác đi công tác qua vùng ấy. Biết là cơ quan chúng tôi đã chuyển đi nhưng Bác vẫn ghé vào thăm, thấy chị Phái ở một mình, Bác thương lắm. Mấy hôm sau, đến thăm chỗ cơ quan mới của chúng tôi, Bác bảo: “ Các cô không nên để cô Phái ở một mình. Nên gửi các thứ còn lại cho đồng bào và đưa cô Phái về cơ quan mới hoặc về địa phương công tác”. Bác dặn đi dặn lại khi ra về: “Không nên để cô Phái ở một mình” - Lúc để chị Phái ở lại, chúng tôi cho rằng cơ quan ít người chỉ có thể để chị Phái ở lại, vả lại đồi Hoàng Ngân cũng gần nhà nhân dân, chị Phái ở lại đấy cũng được. Nghe Bác nói chúng tôi càng thấy Bác thương yêu cán bộ sâu sắc. Ngày 11-2-1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng họp ở Việt Bắc. Tôi được vinh dự ở trong Đoàn Chủ tịch. Đại hội làm việc và ăn, ở ngay tại địa điểm họp, hàng ngày tôi được thấy Bác. Bác điều khiển hội nghị gọn gàng, linh hoạt. Nghe đại biểu Nam bộ, nghe đồng chí Ngô Gia Khảm phát biểu, Bác ứa nước mắt. Đến bữa ăn, Bác thường hỏi: “Các cô, các chú ăn có ngon không?”.
Thấy tôi xanh và gầy vì mới ốm khỏi, Bác bớt một ít thức ăn của Bác sẻ cho tôi, tuy Bác ngồi ăn cách chỗ tôi mấy cái bàn. Bác bảo:
- Cho cô ốm.
Tôi cảm động nghẹn ngào.
Năm 1952, đầu mùa Hè, các cơ quan lục tục kéo về châu Tự do. Chúng tôi cũng rất mong được về. Chị Thanh Hương và một số chị em về trước để sắp xếp, nhưng mãi chúng tôi vẫn không có nhà ở. Bác hỏi thăm, thấy cơ quan Hội Phụ nữ chưa chuyển về được, Bác hỏi anh Hoàng Quốc Việt, anh Việt cho biết là nhân công ở căn cứ địa thiếu, chưa làm kịp nhà. Bác liền cử anh Chánh là bác sĩ chăm sóc sức khỏe của Bác xem giúp đất, tìm chỗ vừa kín, vừa thoáng. Bác lại cho anh em bảo vệ Bác ra làm giúp nhà, đào giúp hầm. Lần đầu tiên, cơ quan Hội Phụ nữ có những cái nhà xinh xắn làm bằng nứa đan rất kỹ và có hầm đào sâu ngập đầu người theo hình chữ chi. Đó là nơi chúng tôi ở cho đến khi hòa bình được lập lại. Lúc bấy giờ, chị em trong cơ quan sốt rét luôn và ăn uống rất kém. Có một lần ghé thăm, Bác hỏi: “Các cô có trồng rau không?. Chị em thưa có. Bác bảo đưa Bác ra thăm vườn rau. Bác ra vườn. Quả tình là rau mọc quá lơ thơ. Bác bảo: “Bác phải cúi xuống nhìn thật kỹ mới trông thấy rau”. Chúng tôi nhìn nhau, biết rằng Bác phê bình mình làm chưa tốt. Bác bảo tiếp: “Chỗ Bác có nhiều giống rau. Bác còn thả cải xoong ở suối tốt lắm. Các cô cố gắng trồng thật nhiều rau và cố nuôi gà lấy trứng mà ăn cho khỏe. Nghe lời Bác, chúng tôi củng cố lại Ban tăng gia sản xuất. Đi qua, thấy vườn rau của chúng tôi xanh tốt, Bác vui lòng. Năm ấy, Hội đồng Chính phủ họp, khi kiểm điểm về tình hình các cơ quan tăng gia sản xuất, các đồng chí phụ trách báo cáo là công tác này tiến bộ nhiều. Bác cười bảo rằng đúng thế, vì ngay vườn rau của phụ nữ cũng tốt.
Năm 1953, Hội Liên hiệp Phụ nữ cử một đoàn đại biểu đi dự Đại hội Phụ nữ quốc tế. Chúng tôi sang cơ quan Trung ương Đảng xin ý kiến. Qua đèo Re, trời mưa, đường lầy, chúng tôi đi rất chậm. Trời đã quá trưa, chúng tôi đói bụng nhưng mệt quá đành ngồi nghỉ lại. Chợt có tiếng vó ngựa. Một chị đứng bật dậy kêu khẽ: “Đúng là Bác!”. Chúng tôi đều nhận ra đúng là Bác, mặc dù chỉ thấy có đôi mắt sáng và hiền (một cái khăn quàng cổ buộc ra sau gáy bịt kín cả miệng và cằm). Bác giơ tay ra hiệu. Chúng tôi hiểu ý, ngồi yên, chỉ nhìn theo cho đến khi ngựa của Bác khuất vào rừng cây. Được trông thấy Bác, bao nhiêu mệt mỏi đều tiêu tan, chị An, chị Bảo, cô Hảo và tôi giục nhau đi tiếp. Vừa đến nơi Trung ương ở, chúng tôi đã thấy anh Trường Chinh cười và bảo”.
- Thôi các chị đi rửa chân rồi đi ăn cơm kẻo đói! - Thì ra Bác về đến nhà đã tự mình gọi dây nói thẳng cho anh Trường Chinh dặn chuẩn bị cơm cho chúng tôi.
Anh Trường Chinh nói:
- Bác còn bảo làm cơm ngay kẻo các cô ấy đói rồi.
Cuối năm 1953, chị Đinh Thị Cẩn, chị Lê Thị Xuyến, các cán bộ văn phòng và Ban Tuyên huấn cùng những chị em giỏi chữ đi vắng hết, người thì đi tham gia cải cách ruộng đất, người thì đi phục vụ chiến dịch. Tết đến, tôi đành phải tự tay viết thư chúc Tết Bác và các đồng chí Trung ương. Tôi cầm bút, ngồi mãi chỉ viết được mấy dòng. Ngoài Tết, Bác ra thăm cơ quan Hội Phụ nữ. Khi ra về, đã qua suối, Bác còn quay lại gọi các cô bảo: “Bác quên nhắc các cô phải bớt ra một người mà dạy cô Ái học văn hóa. Cô ấy viết còn nguệch ngoạc lắm và sai nhiều quá”. Bác nhắc lại cả một số chữ tôi viết sai. Tôi rất xúc động, tự phê bình mình ngại khó, ỷ lại vào thư ký và từ đó tôi cố gắng học.
Tấm lòng của Bác thương yêu chăm sóc quần chúng phụ nữ, thương yêu chăm sóc cán bộ phụ nữ từng ly từng tý, từ việc lớn đến việc nhỏ, không thể nào ghi được hết, nói được hết. Những điều tôi kể trên đây chỉ nói lên một phần nhỏ, một phần rất nhỏ sự quan tâm ân cần và cao cả của Bác đối với phong trào phụ nữ, đối với cơ quan lãnh đạo Trung ương của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam khi mới thành lập trong những ngày toàn dân gian khổ chiến đấu chống thực dân Pháp.
Trích từ sách: Non nước bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội
Đi dự Quốc dân Đại hội Tân Trào
Tôi đang công tác ở Hải Phòng thì được chỉ thị đi nhận nhiệm vụ mới. Sau khi bàn giao công tác cho đồng chí Vũ Quốc Uy, tôi về thẳng nhà đồng chí tên Tiên ở Tây Mỗ, một cơ quan giao thông của Xứ ủy mà tôi đã ở một thời gian trước khi xuống Hải Phòng.
Về đây, tôi mới biết là tôi được cử vào đoàn đại biểu Dảng Dân chủ Việt Nam đi dự Quốc dân Đại hội Tân Trào. Địa điểm tập hợp của Đoàn là một quán nước trên đường cái, cách cầu Đuống khoảng vài cây số. Anh em ăn mặc “cải trang” đủ cách: Người thì mặc kiểu “lái trâu”, áo cánh nâu, quần nâu xắn móng lợn, nhưng vẫn lộ cái trán cao đặc “trí thức”, người mặc áo dài the đen, quần vải trắng, nhưng lại lấp ló cái áo sơ minh đúng “mốt” bên trong… Rồi phòng thông tin đỏ rực cờ sao, rồi từng toán dân quân, du kích nai nịt gọn ghẽ, đi lại tấp nập - khắp nơi, băng, cờ, khẩu hiệu hoanh nghênh đại biểu đi dự Đại hội….
Một buổi sáng, tôi gặp một đồng chí dân quân dắt một con ngựa đi ngược chiều với chúng tôi, sau khi chào hỏi, đồng chí nói với tôi:
- “Ông Cụ” bảo dắt ngựa xuống đón O11. Tôi không nhớ tên là O gì. Có thể là một chị (chị Xân) ở Nghệ An, nữ đại biểu già nhất của Đại hội ấy!
Tôi không hiểu “Ông Cụ” là ai mà quan tâm đến đại biểu, đến phụ nữ, đến người già như vậy, nhưng vì nguyên tắc công tác bí mật, nên tôi không hỏi.
Trưa ngày 16-8, chúng tôi lên tới Tân Trào - vừa rửa mặt xong đã có đồng chí đến giục ăn mặc chỉnh tề ra dự lễ xuất phát của đoàn quân giải phóng đi đánh Thái Nguyên. Sau khi đồng chí Văn (đồng chí Võ Nguyên Giáp) đọc lệnh xuất phát, đồng chí Trần Huy Liệu thay mặt Đại hội chào mừng đơn vị Giải phóng quân và chúc đơn vị đánh thắng quân Nhật ở Thái Nguyên. Tôi được thay mặt đại biểu nữ trong Đại hội lên phát biểu.
Hôm ấy Bác ốm nhiều nhưng Bác cũng cố gắng đến dự Đại hội. Bác mặc bộ quần áo chàm quen thuộc của các cụ già Nùng. Nhiều đại biểu không biết Bác là ai nhưng tất cả đều tôn kính gọi Bác là “Ông Cụ”, vị đại biểu nhiều tuổi nhất của Đại hội.
Đại hội sắp khai mặc, nhà tôi (anh Dương Đức Hiền) gọi tôi:
- Em vào đây, anh giới thiệu với “Ông Cụ”.
Tôi đang bối rối chưa biết chào như thế nào thì Bác rất tự nhiên hỏi ngay:
- Cô công tác ở đâu?
- Dạ, thưa, cháu công tác ở Hải Phòng - Kiến An và Quảng Yên ạ.
- Ba tỉnh kia à? Thế thì bằng Tổng đốc rồi còn gì!
Câu nói vui của Bác làm cả ba chúng tôi cùng cười xòa và tôi cũng hết lúng túng.
Đại hội thảo luận nhiều vấn đề quan trọng: Chính sách đối nội, đối ngoại, biểu quyết lệnh Tổng khởi nghĩa và bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng.
Vì tình hình gấp rút, Đại hội chỉ họp có hai ngày. Tối hôm bế mạc, Bác mời đại biểu nâng cốc:
- Rượu hôm nay chúng ta uống là rượu mà Đội Giải phóng quân vừa hạ đồn Tam Đảo gửi biếu đấy.
Mọi người vỗ tay hoan hô. Đại hội bừng bừng khí thế chiến thắng. Bác đề nghị đại biểu nào biết hát lên hát cho vui. Anh Hoàng Đạo Thúy đã mở đầu bằng bài Lửa trại. Tối hôm ấy, Bác đã như một người Cha của một đại gia đình, tạo cho Đại hội một không khí thật thân mật, thật đoàn kết và thoải mái.
Trong buổi lễ ra mắt của Ủy ban Dân tộc giải phóng, sau lễ tuyên thệ, Bác giản dị chỉ vào một em bé ở trần theo bố mẹ ra dự lễ và nói với các đại biểu:
- “Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm cho tất cả mọi người được ăn no, mặc đủ và được học hành”.
Câu nói làm cho nhiều người rơm rớm nước mắt và thấy rõ nhiệm vụ cách mạng còn lâu dài, gian khổ, giải phóng mới chỉ là bước đầu…
Sau Đại hội, các đồng chí trong Ủy ban Dân tộc giải phóng và một vài đồng chí còn ở lại.
Hôm chia tay, chúng tôi ngồi vòng tròn trên sàn nhà, Bác lần lượt chia quà tặng cho mọi người.
Đến lượt chúng tôi, Bác hỏi:
- Cô chú đã có cháu chưa?
- Dạ chưa ạ.
- Thế tôi tặng bánh xà phòng thơm này, mau có cháu, tắm cho bé nhé!
Mọi người cười ồ. Chúng tôi nắm chặt món quà quý, thấy tấm lòng Bác rộng mênh mông, thông cảm và thu phục được tất cả mọi người.
Trích từ sách: Quốc dân đại hội Tân Trào,
Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, 1995
Cứ công tác giỏi
….Tháng 11-1959, tôi được điều về công tác ở phòng y tế huyện. Chưa đầy một năm, tháng 9-1960, tôi lại được về tỉnh học bổ túc văn hóa. Không ngờ dịp này, hân hạnh cho tôi là: Được gặp Bác Hồ!
….Tháng 3-1961, Ban Giám hiệu cho biết sẽ có cán bộ Trung ương về thăm. Chúng tôi đều đoán già đoán non, chưa biết là ai. Mọi người bàn tán giữa sân thì một đoàn ôtô nối đuôi nhau chạy vào cổng. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi.
Bỗng mọi người cùng reo lên:
- Bác Hồ! Đúng Bác Hồ rồi!
Bác tiến vào giữa tiếng hoan hô reo mừng vang dậy. Trước hết Bác đi thăm xung quanh nhà, rồi đến chỗ ăn, chỗ ngủ của chúng tôi. Đến đâu Bác cũng khen:
- Sạch sẽ thế này là tốt.
Xong, Bác ngoảnh lại dặn mọi người:
- Nhưng chớ để Bác đi rồi thì lại ở bẩn nhé!
Một đồng chí đáp:
- Thưa Bác, bao giờ cũng sạch sẽ thế này đấy ạ!
Bác hỏi tiếp:
- Có đúng không các cô các chú?
- Dạ thưa Bác, đúng ạ!
Riêng tôi, chẳng nói được gì, chỉ biết đi theo Bác, để hôm nào về kể lại tường tận cho bố mẹ và bà con nghe.
Em Bàn Thị Tiến, học ở trường thiếu nhi vùng cao, mặc quần áo dân tộc, chạy lên tặng hoa Bác. Bác xoa đầu, hỏi:
- Người Dao Tiền các cháu học ở đây có đông không?
- Dạ, thưa Bác đông ạ.
- Em ngoảnh ra chỉ vào tôi:
- Chị Quan đứng ở kia cũng là người Dao Tiền đấy ạ.
Bác nhìn sang phía tôi. Tôi cảm động vô kể, và bỗng ân hận là lúc ra tỉnh học không mang theo quần áo dân tộc để mặc trong những ngày long trọng đáng ghi nhớ như thế này.
Bác nói chuyện thân mật cứ như trong gia đình vậy.
Bác hỏi các em ở trường vùng cao có được ăn no không, có được mặc ấm không, đã biết ngủ màn chưa, biết tập thể dục chưa, có nhớ nhà không?...Tôi nhớ nhất Bác dặn điều này:
- Các cháu là cán bộ dân tộc, phải làm sao lo cho đồng bào các dân tộc được ăn no mặc ấm, không tin vào ma quỷ. Muốn thế, các cháu phải công tác tốt. Muốn công tác tốt bây giờ phải học tập thật tốt đã.
Sau đó, Bác phê bình một số anh chị em khi ra tỉnh đua đòi ăn mặc, lúc trở về xã lại nói tiếng Kinh, không chịu nói tiếng mẹ đẻ của mình. Tuy nhiên, Bác không ngăn cấm việc học tiếng các dân tộc khác mà còn khuyến khích. Cuối cùng, Bác dặn:
- “Người dân tộc này phải học tiếng nói của dân tộc khác để hiểu biết nhau, giúp đỡ nhau học tập và sau này nếu đi công tác ở vùng không phải dân tộc mình, cũng làm việc được tốt hơn”.
Trước lúc ra về, Bác bảo:
- Các cô, các chú, các cháu công tác thật tốt, học tập thật tốt, lần sau Bác sẽ lên thăm nữa. các cháu có dám hứa với Bác lần sau Bác lên sẽ có thành tích bằng ba bằng bốn thế này không nào?
- Dạ thưa Bác, có ạ!
Vâng lời Bác dạy, ngày đêm tôi chăm chỉ học tập. Cuối khóa tôi được bầu là học viên giỏi. Riêng về tiếng dân tộc, ngoài tiếng Tày thành thạo, tôi còn học được thêm ít tiếng Cóc Mùn (cũng là một nhánh của dân tộc Dao), Thanh Y…. Và đúng như lời dạy của Bác, nhờ học tiếng dân tộc mà việc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau học tập của toàn trường càng về cuối khóa càng tốt.
Sự chăm sóc của lãnh đạo làm tôi, gia đình tôi, bà con làng bản hết sức cảm động. Lúc đặt chân tới trường y sĩ, tôi đã tự xác định phương hướng học tập rõ ràng. Tôi nghĩ phải học thật giỏi, làm sao xứng đáng với công ơn chăm sóc của Đảng, của Bác.
Trích từ sách: AvoócHồ (Hồi ký), Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1977
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)
Để nhanh chóng trở về đội ngũ
Một đêm đầu tháng 3-1969, đồng chí trưởng K. cho biết, sáng mai tôi sẽ đi công tác đặc biệt. Thấy tôi bối rối, chú rỉ tai nói nhỏ: “Có thể cháu được gặp Bác đó, nhưng phải giữ bí mật”. Ôi, tôi sung sướng quá. Nhưng đây mới chỉ là “có thể”, tôi không thể tin rằng sự thật ấy lại đến nhanh chóng như vậy. Đêm đó, tôi về chọn trong vali tìm một bộ quần áo để mặc. Lúc đầu tôi định chọn bộ quân giải phóng, nhưng rồi tôi lại lấy bộ quần áo bà ba tôi mang từ miền Nam ra gấp ép lại dưới gối để sáng mai mặc cho thẳng.
Cả đêm đó tôi không sao ngủ được... Tôi nhớ lại những ngày ở miền Nam... Những năm đó chúng tôi nhớ Bác da diết. Ở nhà mẹ tôi có một tấm hình của Bác, mẹ tôi giấu kỹ lắm, chỉ đến ngày Tết và Ngày sinh nhật Bác mới dám đem vào buồng cho cả nhà xem. Riêng tôi, tôi được một chú cán bộ giải phóng cho một tờ bạc năm đồng của miền Bắc có in hình Bác. Để nguyên cả tờ bạc to quá, tôi cắt riêng hình Bác. Hình ảnh đó của Bác tôi mang luôn bên mình. Nhiều bữa, giữa trận chiến đấu chống địch càn quét, chị em du kích chúng tôi chuyền tay nhau ngắm nghía hình Bác. Tôi nhớ, sau Tết năm 1967, hôm đó chúng tôi bố trí đánh trả bọn “bình định”. Ngồi trong chiến hào H. bảo tôi đưa hình Bác cho H. coi. Cầm hình Bác, H. ngắm nghía mãi rồi khe khẽ ngâm bốn câu thơ của Bác:
"Xuân về xin có một bài ca,
Gửi chúc đồng bào cả nước ta:
Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi,
Tin mừng thắng trận nở như hoa!".
Bỗng H. nói to:
- Tụi bay ơi! Trận này ta phải làm ăn ngon để báo tin mừng ra Bác Hồ nghen!
Và trận đó chúng tôi thắng rất vẻ vang, đánh lui cả tiểu đoàn địch.
Cuối năm ấy, chẳng may tôi bị địch bắt, chúng đưa về nhà lao của tỉnh tra tấn hết sức dã man. Thấy tôi vẫn không khai, chúng gọi bọn ác ôn ở quê tôi lên. Thằng ác ôn nói:
- Con nhỏ này thờ phụng ông Hồ lắm đó!
- À, tao đánh cho mày phải chán thờ ông Hồ của mày mới thôi.
Chúng lại đánh. Thấy đánh, tra tấn bằng các nhục hình không kết quả, chúng đem tôi ra chặt bớt một chân... Tôi mê man mất mấy ngày vì cơn đau và sốt do bị chặt mất một chân. Nhưng khi tỉnh lại tôi nghĩ:“Còn con mắt là còn thấy được Bác Hồ, mất một chân cũng chưa phải nằm liệt một chỗ, không sợ...”.
Trong những năm đau thương ấy, chúng tôi thương nhớ Bác biết kể vào đâu cho vừa. Bởi vậy cho nên khi chiếc ô tô đỗ xịch trong vườn Chủ tịch Phủ tôi vẫn chưa tin rằng mình đi gặp Bác. Một đồng chí đưa tôi vào căn phòng nhỏ có một chiếc bàn gỗ và ba chiếc ghế tựa. Đồng chí cán bộ (sau này tôi biết đó là chú Vũ Kỳ, Thư ký của Bác) mời tôi ngồi và vui vẻ hỏi tôi:
- Cháu có biết hôm nay đến đây để làm gì không?
- Cháu chưa biết chi cả! Tôi lúng túng đáp.
Chú Kỳ lại cười, tôi nhìn trong cái cười đó rất nhiều niềm vui. Chú Kỳ đứng dậy giơ hai ngón tay ra và nói:
- Cháu ngồi đây, hai phút nữa Bác Hồ sẽ ra gặp!
Nghe câu nói đó, tự nhiên trống ngực tôi đập mạnh, các mạch máu chạy rần rật khắp người, tôi chống nạng đứng dậy nhìn ra phía cửa thấp thỏm. Căn phòng yên tĩnh, tôi lắng tai nghe tiếng chân bên ngoài nhưng chỉ nghe thấy tiếng tim mình đập. Bỗng, một hồi chuông reo cắt đứt những ý nghĩ lung tung của tôi. Bác Hồ chống nhẹ chiếc can mây bước vào. Thấy Bác, quên bẵng mình chỉ còn một chân, tôi bỏ cả nạng chạy lại Bác. Thấy tôi chệnh choạng, Bác bước lên, tôi sà vào lòng Bác như một con chim nhỏ sà vào lòng mẹ. Và tôi không thể nói được gì hơn là khóc, tôi gục đầu vào vai Bác và khóc nấc lên. Bác cầm tay dắt tôi lại ngồi xuống ghế và ân cần xoa đầu tôi, Bác hỏi:
- Tại sao gặp Bác mà cháu khóc?
Tôi cố gạt nước mắt nhìn lên để thưa với Bác:
- Thưa Bác, cháu mừng quá...
Tôi chỉ nói được có thế rồi nước mắt lại chảy nhiều hơn. Khi địch chặt chân tôi, tôi không hề khóc mà bây giờ đây gặp Bác tôi lại khóc...
Bác để trước mặt tôi một cái bình rất đẹp và hỏi:
- Cháu Kiển biết đây là cái gì không?
Tôi lau nước mắt và thưa:
- Dạ, có phải cái bình rượu không ạ!
Như một người ông, Bác cười nói với đứa cháu nhỏ:
- Không phải, đây là cái đồng hồ.
Bấy giờ tôi mới nhìn kỹ thì đó là chiếc đồng hồ để bàn lồng trong một cái bình rất đẹp. Bây giờ nghĩ lại tôi mới biết khi đó Bác mang chuyện cái đồng hồ ra để làm cho tôi qua cơn "mừng mừng, tủi tủi" ấy đi. Thấy tôi vui Bác liền hỏi chuyện. Bác hỏi về đồng bào Duy Xuyên, về bạn bè, đồng đội của tôi. Bác biết rõ gia đình tôi lắm. Bác hỏi:
- Cháu ra ngoài này đã gặp hai anh cháu chưa?
Bác hỏi cha mẹ già của tôi còn ở lại nhà ai chăm sóc nuôi dưỡng. Bác hỏi thăm về các chị em khác, về chị Quyên, chị Ngô Thị Tuyết, chị Trần Thị Lý. Bác hỏi tôi có biết gia đình anh Trỗi như thế nào không? Bác hỏi cả tình hình của bà con ở Quảng Nam. Tôi cố thưa tỉ mỉ với Bác về những điều mắt thấy tai nghe. Bác nghe rất chăm chú, Bác tỏ ra vừa lòng với tinh thần bám trụ vừa sản xuất vừa chiến đấu của đồng bào quê tôi. Bác gật đầu khen tôi:
- Cháu cũng biết được nhiều chuyện đấy!
Tôi chưa hết sung sướng và cảm động thì Bác đã hỏi:
- Thường ban đêm cháu có ngủ được ngon giấc không?
- Dạ, thưa Bác, cháu ngủ rất ngon giấc ạ!
- Chân cháu còn nhức không?
Bác luôn dành cho tôi những câu hỏi thăm rất tỉ mỉ, rất tình cảm, không khác nào một người ông đối với đứa cháu đi xa mới về. Bác hỏi cả trường hợp bọn địch chặt chân tôi. Thấy tôi nhìn xuống cái chân giả, Bác hỏi:
- Cháu có buồn không?
Tôi ngước lên, nhìn thẳng vào mắt Bác. Bác âu yếm nhìn tôi. Tôi như được Bác truyền cho nhiều sức mạnh. Tôi mạnh dạn thưa:
- Thưa Bác, cháu cũng như các bạn cháu ở miền Nam cứ nghĩ rằng: Trong chiến đấu, dù bị cụt hết tay chân, mà còn đôi mắt sáng để ngày chiến thắng được nhìn thấy Bác thì không bao giờ buồn. Hôm nay cháu được gặp Bác, cháu chỉ biết vui suốt đời.
Nghe tôi nói đến câu đó, mắt Bác chớp nhanh, hai giọt nước mắt lăn trên đôi gò má của Bác. Tôi bối rối và ân hận tại sao lại nói điều đó để Bác buồn. Như hiểu tâm tư đó của tôi, Bác chuyển sang chuyện khác...
Cuối buổi chiều, Bác bảo tôi và cả chú Vũ Kỳ ở lại ăn cơm với Bác.
Tới bữa ăn, thấy tôi ngồi hơi xa, Bác bảo chú Kỳ đổi chỗ để tôi được ngồi gần Bác. Bác xới cơm và bỏ vào bát cho tôi một cái đùi gà. Bác nói:
- Cháu là nữ thanh niên, cháu phải ăn nhiều vào nhé. Bác hỏi tôi ở đơn vị ăn uống như thế nào? Lúc Bác ăn hết bát cơm, xới bát khác, Bác đưa bát cơm về phía tôi hỏi:
- Bác xới thế này được chưa?
- Thưa Bác, Bác phải đơm thiệt đầy ạ!
Chiều ý tôi, Bác xới thêm thật đầy và cười. Bác bỏ thêm thức ăn cho tôi và bảo:
- Cháu phải thi đua ăn với Bác nhé!
Cả buổi chiều hôm đó tôi được sống trọn vẹn bên Bác cho mãi đến khi Bác chuẩn bị đi tiếp khách quốc tế. Đến giờ, Bác đi thay quần áo. Một lúc sau Bác bước ra với bộ quần áo kaki đại cán mới (lúc nãy Bác mặc bộ kaki đã cũ, cổ áo hơi sờn), Bác vui cười hỏi tôi:
- Bác tiếp khách Cuba, cháu xem Bác mặc thế này có đẹp không?
- Thưa Bác, đẹp lắm ạ!
Bác cười rất thoải mái. Bác dắt tôi xuống bậc thềm, nhìn xuống chiếc chân giả của tôi thấy có một mảng quần bị sờn, Bác nói:
- Chiếc chân giả này chưa tốt lắm, dễ bị rách quần. Rồi quay sang phía chú Kỳ, Bác hỏi:
- Sắp tới, cháu Kiển đi lắp chân ở đâu?
- Dạ, thưa Bác, ở Hunggari ạ!
Bác gật đầu tỏ ý hài lòng. Trước lúc chia tay, Bác hôn lên trán tôi và căn dặn:
- Cháu phải cố gắng tập đi để chóng trở về đội ngũ.
Mãi đến hôm nay, khi đất nước đã sang Xuân, tên Mỹ cuối cùng đã rút khỏi nước ta và tôi đã đi lại bình thường bằng chiếc chân giả. Tôi nghĩ rằng, trong từng bước đi đó của tôi, có tình thương và sức mạnh của Bác. Tôi nguyện sẽ đi nhanh hơn, để có thể trở về đội ngũ và tôi nghĩ nhiều đến các bạn tôi, những con người đang giữ vững đội ngũ cách mạng "Vì độc lập tự do" của Tổ quốc
Trích từ sách: Miền Nam trong lòng Bác, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1975
Bác làm văn nghệ
Hồi còn nhỏ, ở miền Nam, mỗi khi nghe các cô, các chú hoặc bà tôi kể chuyện Bác Hồ thì dù đang ham chơi hay làm bất cứ gì chúng tôi cũng kêu nhau chạy lại, chạy đến xúm quanh người lớn và chăm chú lắng nghe và nuốt lấy từng lời. Đã có lần, chúng tôi bàn nhau viết một lá thư ra Bắc mời Bác vô thăm miền Nam để chúng tôi được tận mắt thấy Bác, nhưng rồi mong mãi, “Bác ở xa lắm, các con cứ chịu khó chăm học ngoan ngoãn, nhất định có ngày Bác sẽ vô”. Bà tôi nghe chuyện phì cười và dặn chúng tôi như vậy.
Những ngày ra miền Bắc, chưa được gặp Bác nhưng tôi vẫn nhớ lời bà tôi dặn và hy vọng thế nào cũng có ngày đạt được ước mơ đó. Nhưng thật không ngờ, cuối năm 1962 tôi được gặp Bác trong một trường hợp đặc biệt, vượt rất xa mơ ước trước đó của tôi. Cho đến nay, và mãi mãi về sau này, đó vẫn là niềm vui sướng, vinh dự quá lớn đối với tôi và mỗi lần nhớ lại, tôi không khỏi bồi hồi xúc động.
Lần ấy, tôi dự Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ ba. Được đi dự Đại hội văn nghệ toàn quốc đối với một diễn viên mới bước vào nghề như tôi là đã là một điều vô cùng phấn khởi lại thêm hy vọng sẽ được gặp gỡ Bác ở Đại hội làm cho tôi cứ náo nức không yên. Ngày 1 tháng 12, ngày cuối cùng của Đại hội. Bấy giờ vừa sau giờ nghỉ giải lao, chuông đã rung được mấy phút nhưng lẻ tẻ còn có đại biểu chưa vào hết hội trường. Bỗng ngoài hành lang có tiếng xôn xao rồi có tiếng reo: “Bác đến! Bác đến!”. Chỉ một loáng cả hội trường ào lên như sóng. Đồng chí Trường Chinh nhanh nhẹn đứng dậy ra đón Bác ở cầu thang. Tiếng reo mừng, tiếng hoan hô “Bác Hồ muôn năm!” cứ vang lên cho đến lúc Bác giơ tay ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống và ổn định trật tự để Bác nói chuyện. Người tôi nóng bừng lên, chú Võ Hồng Cương đưa cho tôi một bó hoa mà tôi cứ lúng túng không biết làm gì. Nhiều đại biểu được mang hoa lên tặng Bác cũng lúng túng không kém. Bác nhìn chúng tôi và hỏi:
- Tặng hoa à? Tặng hoa phải đi nhanh lên chứ?
Cả hội trường lại vang lên tiếng cười reo. Câu nói đầu tiên của Bác làm không khí Đại hội thêm vui vẻ đầm ấm hẳn lên. Chúng tôi cũng phấn khởi, lấy lại bình tĩnh ôm hoa chạy về phía Bác.
Bác lại hỏi:
- Không mấy khi được gặp đông đủ thế này. Bác muốn bắt tay tất cả, nhưng không có thì giờ. Vậy Bác bắt tay đại biểu thôi. Đại biểu nào cao tuổi nhất nào? - Bác cười và nói thêm - Bác nói tuổi cao nhất không phải già nhất đâu nhé!
Tiếng cười reo lại vang lên, họa sĩ Nguyễn Phan Chánh chạy lại.
- Đaị biểu nào ít tuổi nhất - Bác hỏi tiếp.
Tôi giật thót mình, vì trong đại hội, tôi được xem là người ít tuổi nhất.
Nhưng lúc ấy hình như tôi vẫn chưa dám tin là được Bác gọi.
Chú Bảo Định Giang kéo tay tôi dẫn về phía Bác rồi nói.
- Thưa Bác, Cháu Trà Giang đây, người miền Nam - trẻ nhất Đại hội đấy ạ!
Tôi dâng hoa lên Bác mà chân tôi cứ run run, Bác hôn lên trán tôi rồi hỏi:
- Phải cháu là người trẻ nhất Đại hội không?
-Dạ. Tôi đáp lí nhí vì niềm vui và xúc dộng nghẹn ngào.
- Trẻ mà có thành tích thì cháu càng phải chăm học và nhất là phải hết sức khiêm tốn.
- Dạ.
Tôi chỉ biết đáp vậy nước mắt muốn trào ra.
Trong giây phút đó, lời căn dặn của Bác tôi thấy thấm thía vô cùng. Tôi nhớ đến nội, đến bà con, cô bác và các bạn tôi đang ở miền Nam. Tôi đâu có thành tích đáng kể gì đâu. Bước đầu tuy có chút thành công, nhưng nhìn lại thấy mình còn yếu nhiều mặt. Thành tích ấy có thấm thía vào đâu với những hy sinh của bà con, bạn bè, cô bác miền Nam bao nhiêu năm đấu tranh phá ách kèm kẹp của địch. Thế mà trong đó vẫn chưa ai được thấy Bác Hồ như tôi bây giờ… Lại được nghe Bác nói và được Bác hôn nữa! Trời ôi, lúc này tôi thèm có đôi cánh quá! Tôi sẽ bay vụt về trong đó khoe với chúng bạn, tụi nó sẽ điên lên gì sung sướng cho tôi mất, nhất là con Sáng thân yêu của tôi. Giờ này tụi nó ở đâu? Có được? Có còn đi học không? Có còn nguyên vẹn cả không? Tôi thấy thương và nhớ chúng nó quá.
Bác hỏi lại hỏi và bắt tay lần lượt các đại biểu miền Nam, đại biểu miền núi.
Sau đó, Bác bắt đầu nói chuyện với Đại hội. Bác hỏi:
- Có bao nhiêu bản tham luận tất cả?
- Thưa Bác, chín mươi chín ạ. Một đồng chí đáp. Bác cười:
- Thế này là vừa đúng một trăm. Nhưng các cô chú đừng sợ, chỉ có ba trang thôi! Bác cầm tờ giấy giơ lên trước mặt, cả hội trường lại cười reo vui vẻ.
Bác nói tiếp :
- Bác nêu một kinh nghiệm cũ. Trong thời thanh niên - Bác hạ giọng nói thêm - Giờ Bác cũng vẫn còn là thanh niên - Bác hoạt động cho Đảng, Bác phải làm nhiều nghề. Làm ảnh, làm bếp. Đây có ai làm bếp không? Cũng có khi Bác làm văn nghệ, Bác viết một cuốn tiểu thuyết, nói thực là một quyển tiểu thuyết về cách mạng tháng Mười Nga. Bác viết, đồng chí Hồ Tùng Mậu in. In bằng đất. Rồi phát hành bao nhiêu? Một quyển. Mấy quyển nữa thì cảnh sát Anh tịch thu hết. May nó tịch thu tiểu thuyết mà không tịch thu được người viết vì hai anh em (Bác và Hồ Tùng Mậu) đi vắng.Vừa đây mới nghe đồng chí Tố Hữu nói có xem quyển ấy. Vậy là một quyển tiểu thuyết phát hành được một quyển, đuợc một người xem! Đó là một “thành công” về tiểu thuyết của Bác đấy! Bác lại viết một vở kịch đả kích Khải Định, bù nhìn của thực dân Pháp. Viết bằng chữ Pháp. Thế mới gan chứ. Điếc không sợ súng mà! Viết xong thì Bác phải đi. Sau này “Câu lạc bộ ngoại ô” có đem ra diễn. Thành công, thất bại thế nào, Bác cũng không biết. Đó là “thành tích”Bác viết kịch . Rồi Bác cũng diễn kịch nữa đấy!
Các đại biểu sân khấu và điện ảnh ồn ào vui vẻ. Tôi bật reo lên: “Bác cũng có lúc làm diễn viên!”, điều ấy đối với chúng tôi thật là thú vị biết chừng nào!
Bác cũng cười và kể tiếp:
- Ở Pháp có một nhóm văn nghệ tiến bộ. Họ viết một kịch bản đả kích thực dân. Bác sắm một vai, ra sân khấu không đầy một phút. Diễn xong, anh em bắt tay khen: “Đồng chí diễn khá lắm!”. Rồi thù lao một cốc cà phê!
Cả hội tường cười rộ, vỗ tay. Ngừng một lát, Bác nói tiếp:
- Kinh nghiệm thế nào? Trước cách mạng, muốn sống phải lao động chân tay, chứ làm văn nghệ thì ba lần làm văn nghệ. Bác chỉ đươc uống một cốc cà phê thôi!
Bác nói chuyện thật giản dị mà rất dễ nhớ. Tôi nhớ nhất những lời Bác nói về sân khấu và điện ảnh dưới thời đất nước ta còn bị nô lệ:
-… Nghề múa hát chỉ là một thứ tiêu khiển cho bọn “ngồi mát ăn bát vàng”. Chúng còn khinh rẻ và gọi những nghệ sĩ múa hát là “xướng ca vô loài”. Hồi đó chỉ có chiếu bóng câm, bọn thực dân Pháp dùng chiếu bóng để bôi nhọ dân tộc ta.Thí dụ, trong hội chợ ở Mác-xây, ngoài những tranh vẽ lũ công khanh Việt Nam đang lúc nhúc lạy quỳ trước vua bù nhìn cùng chó ngao toàn quyền, khâm sứ, ngoài những công nhân trần trụi kéo xe thuê, còn chiếu phim những bà già ăn trầu, răng đen, những công nhân gầy gò rách rưới, những người đóng khố đang leo dừa…Chúng gọi là “hình ảnh An Nam”. Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải làm cách mạng.
Bác khuyên nhủ và động viên những người làm công tác văn nghệ bây giờ phải cố gắng nhiều vì đã có điều kiện rất thuận lợi để phát triển tài năng. Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta. Những tác phẩm ca tụng chân thật những người mới, việc mới, chẳng hạn những người làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau.
…Bác về rồi mà những cảm xúc của giờ phút được gần Bác vẫn dào dạt trong lòng tôi. Những lời dạy bảo ân cần của Bác vẫn âm vang trong tâm trí tôi. Nếu như trước kia, tôi chỉ biết yêu Bác qua những sách, báo mà tôi đã học, qua những mẩu chuyện bà tôi, các cô, chú đã kể, những tấm ảnh mà tôi đã chăm chú nhìn từng sợi râu của Bác… thì giờ đây, lòng yêu kính của tôi đối với Bác được nhân lên gấp bội, sâu sắc hơn, cụ thể hơn. Bác đã trực tiếp dạy tôi “phải hết sức khiêm tốn”. Tôi hiểu, ở công tác của tôi không không phải là dễ dàng thưc hiện tốt lời Bác dạy, nhất là khi tuổi đời và tuổi nghề còn non nớt.
Sống giản dị, khiêm tốn, suốt đời cống hiến cho cách mạng, không suy bì tính toán cho cá nhân mình. Đấy là bài học rất lớn đối với tôi qua cuộc đời của Bác. Bài học này tôi càng thấm thía hơn khi được gặp Bác lần thứ hai.
Lần ấy, sau Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ ba khoảng một năm, tôi lại có may mắn lớn là được cùng với một số bạn vào thăm nơi Bác ở. Điều làm chúng tôi yên tâm và mừng nhất là thấy Bác vẫn khỏe, da Bác vẫn hồng hào, mọi cử chỉ của Bác đều nhanh nhẹn, dứt khoát.
Khi anh Kỳ giới thiệu đến tôi thì Bác gật đầu bảo nhớ rồi. Bác gị tên tôi và hỏi:
- Dạo này cháu làm gì?
- Dạ thưa Bác, cháu được đi học lớp lý luận nghiệp vụ ạ.
- Không tự kiêu chứ?
- Dạ thưa Bác, không ạ.
- Thế là tốt!
Bác cười, xốc lại chiếc áo khoác ở vai và dặn tiếp:
- Các cháu còn trẻ, phải chịu khó học và nhất là phải hết sức khiêm tốn học kinh nghiệm tốt của những người đi trước.
-Dạ - Tất cả chúng cháu đều “dạ” và chăm chú nhìn không bỏ sót một cử chỉ nào của Bác. Bác cho chúng tôi đi xem phim. Thật sung sướng cho tôi, khi xem phim tôi được ngồi gần Bác. Suốt buổi chiều, thật ra tôi chẳng xem được mấy vì phần nhiều là nhìn Bác. Tôi có cảm giác là tuy Bác khỏe, nhưng tóc Bác đã có bạc thêm nhiều. Nhớ lại những lần Bác nhắc đến miền Nam: “miền Nam trong tim tôi”, “Ngày nào tổ quốc chưa thống nhất. Bắc Nam chưa sum họp một nhà thì tôi còn ăn chưa ngon, ngủ chưa yên”, lòng tôi cứ nao nao vì thương Bác. Bác vẫn chăm chú xem, thỉnh thoảng lại hỏi chuyện tôi. Tôi nhớ hôm ấy có chiếu một bộ phim tài liệu của Liên Xô. Khi trên màn ảnh xuất hiện cảnh Đại hội ở điện Krem-lanh thì bác nói với tôi:
- Công trình xây dựng của công nhân Liên Xô thật vĩ đại phải không cháu?
- Dạ - Rồi tôi khoe với Bác - mới vừa qua, tới dự Đại hội liên hoan điện ảnh quốc tế ở Mát-xcơ-va, cháu đã được đặt chân đến cung điện lịch sử này.
Bác gật đầu hỏi:
- Thế cháu có thích không?
- Dạ thích - Rồi tôi lại nói luôn với Bác cảm giác ngỡ ngàng, có phần tự ti của một người mới ra nước ngoài lần đầu, đứng trước đam đông của gần năm mươi nước đến dự lễ khai mạc Đại hội. Quả tình là đối với tôi lúc đó, cái gì cũng mới lạ, bỡ ngỡ: những công trình kiến trúc đồ sộ, những cảnh bài trí choáng lộn, những kiểu ăn mặc đủ màu sắc mới lạ… Lúc ấy, trên màn ảnh cũng hiện ra quang cảnh đại hội, có cả tôi trong đó. Bác hỏi:
- Họ sang hả cháu?
- Dạ thưa Bác, họ sang và diện lắm Bác ạ. Còn mình thì chẳng có gì.
Hôm khai mạc Đại hội, người đông mà họ ăn mặc sang trọng quá, cháu cứ thấy ngường ngượng thế nào ấy…
Bác trả lời tôi và mắt không rời màn ảnh nhỏ:
Sao lại ngượng? Chúng ta còn nghèo nhưng dân tộc ta rất đáng tự hào, phải không cháu?
- Dạ. Tôi thấy lúng túng và thấy mặt nóng bừng lên.
Cho mãi đến sau này, mỗi lần nghĩ lại, tôi vẫn còn thấy ân hận không hiểu tại sao lúc ấy tôi lại nói với Bác điều ấy. Đành rằng tôi chỉ thú nhận một tâm trạng có thật, nhưng cái đó đối với tôi cũng chỉ thoáng qua thôi, tại sao phải để Bác bận tâm vì một chuyện như thế? Khi ra về, thấy nét mặt Bác vẫn rất vui, tôi mới hơi yên lòng, nhưng tôi vẫn không thể tha thứ cho sự thiếu sót trên. Tôi đặt quyết tâm phải luôn luôn đinh ninh nhớ lời Bác dạy, học tập lối sống giản dị và đạo đức cách mạng lớn lao của Bác. Vì xét cho cùng, ý nghĩ trên của tôi chứng tỏ đã có lúc tôi muốn buông lỏng mình theo những cám dỗ bề ngoài rất không đúng lúc. Lời nhắc nhở của Bác đã cho tôi một bài học vô cùng thấm thía.
Làm sao mỗi nhân vật thể hiện điều mang đươc nhịp đập hơi thở của thời đại, xứng đáng với miền Nam, với dân tộc ta anh hùng đang làm nên những năm tháng lịch sử này? Những lời căn dặn và sự săn sóc ân cần của Bác, lòng mong mỏi, hy sinh của ba má, của bạn bè… luôn luôn thôi thúc tôi.
Tôi muốn, bằng việc làm thực tế, bằng những nhân vật thể hiện, tôi gửi gắm vào đó tất cả những suy nghỉ nung nấu, lòng căm thù sâu sắc sâu sắc cũng như niềm yêu thương, mong nhớ vô hạn và cả những ước mơ cháy bỏng mà tôi hằng ấp ủ…
Tôi muốn, qua đó thưa với Bác lời quyết tâm và lòng biết ơn chân thành của tôi đến với Bác kính yêu.
Trích từ sách: Người là Hồ Chí Minh (Tập Hồi ký), Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995
Bác dạy “Phải chăm chỉ học tập”
Năm 1950, tôi 16 tuổi, nhưng người còn bé lắm. Từ Khu III, tôi chuyển công tác về làm liên lạc đưa công văn sang Văn phòng Phủ Chủ tịch. Hôm đó, đang chú ý nhìn một tổ chim trên cành cao, tôi bỗng thấy một Ông Cụ già ở phía trước đi lại. Thoáng trông, tôi nhận ngay ra Bác, tôi reo lên và chạy lại. Bác thân mật dẫn tôi đi về phía văn phòng. Trên đường, Bác hỏi chuyện tôi về gia đình, về công tác,về sinh hoạt và bảo tôi ở lại ăn cơm trưa.
Bấy giờ theo chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, cơ quan chọn cử một số cán bộ trẻ ra nước ngoài học. Tôi cũng ở trong số đó. Nhưng tôi không muốn đi. Biết được điều đó, Bác liền gọi đến và nói:
- Bây giờ có điều kiện thì phải học tập. Học tập để hiểu nhiều, biết nhiều. Có hiểu nhiều biết nhiều, mới phục vụ nhân dân tốt được.
Sau khi giảng giải và khuyên tôi đi học là cần thiết, Bác dặn:
- Đi học thì phải chịu khó, chăm chỉ học tập. Chưa hiểu thì hỏi, không được giấu dốt, đã hiểu rồi thì bảo lại cho bạn cùng hiểu.
Rồi Bác lấy cái hộp thuốc lá của Bác đưa cho tôi. Bác nói:
- Bác cho cháu cái hộp này để đựng kim chỉ, ngoài giờ học thêu, thùa, vá, may. Con gái phải biết làm những việc đó.
Tôi học sư phạm và trở thành nhà giáo. Ngày tháng qua đi rất nhanh. Nhưng những lời Bác dặn vẫn vang vọng trong lòng tôi. Tôi ra sức học tập, dạy dỗ các em. Chiếc hộp thuốc lá Bác cho, tôi giữ rất trân trọng. Nghe lời Bác dặn, tôi học may, học vá, học thêu thùa. Trong chương trình học tập của các em, tôi cũng cố gắng sắp xếp thì giờ dạy các em gái trong lớp học khâu vá. Năm nào, tôi cũng kể cho các em nghe chuyện chiếc hộp thuốc lá Bác cho. Tôi không có ý đề cao mình là đã được gặp Bác, mà muốn qua câu chuyện thật làm cho các em thêm kính yêu lãnh tụ, thêm cố gắng học tập và làm theo lời Bác dạy.
Tôi được gặp lại Bác trong một trường hợp rất đột ngột. Hôm đó, Bác đến thăm trại hè của giáo viên họp ở trường Chu Văn An. Nghe tin Bác đến thăm, cả hội trường náo nức hẳn lên. Riêng tôi thì lòng xáo động, bồn chồn đến lạ! Suốt từ ngày xa Bác ở Việt Bắc đến giờ, tôi chưa được gặp lại Bác. Không biết Bác dạo này có khỏe không? Bế con trong lòng, tôi cứ thầm mong Bác đi qua chỗ mình để được thấy Bác (Hôm đó đi họp buổi tối, tôi bế theo cả cháu bé).
Bác đến. Cả hội trường reo lên. Bác nói chuyện với chúng tôi rất vui, rất sôi nổi. Bác hoan nghênh năm học vừa qua các thầy giáo, cô giáo đã có nhiều cố gắng. Bác nói:
- Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước tiên phải có con người xã hội chủ nghĩa. Các thầy giáo, cô giáo là những người đào tạo cho Tổ quốc những con người mới. Các thầy giáo, cô giáo phải thấy nhiệm vụ đó là hết sức vinh quang nhưng cũng vô cùng nặng nề, mà mỗi người đều phải cố gắng vượt bậc mới hoàn thành được…
Bác dặn:
- Thầy giáo thì phải hiểu học trò, phải thực sự thương yêu, chăm sóc học trò. Dạy học, không chỉ dạy trên lớp mà còn phải liên hệ với gia đình, với đoàn thể.
Nói chuyện xong, Bác bước xuống bục, đi lại phía tôi. Gặp tôi, Bác hỏi:
- Cháu Đức đó à?
Tôi xúc động quá! Bao nhiêu năm rồi, bao nhiêu ngày xa cách, bao nhiêu sự việc, bao nhiêu con người... thế mà Bác còn nhớ tôi. Cổ nghẹn lại, nước mắt trào ra, mãi tôi vẫn không trả lời Bác được.
Thấy tôi bế cháu bé. Bác lại hỏi chuyện gia đình tôi và khen cháu bé khoẻ, lớn. Tôi nghĩ đến những lời Bác dặn trước kia và cái hộp thuốc lá Bác cho để đựng kim chỉ. Tôi nói với Bác:
- Thưa Bác, nghe lời Bác dạy, cháu đi học sư phạm rồi về nước dạy học, cái hộp Bác cho để đựng kim chỉ, cháu vẫn còn giữ.
Tôi định nói rất dài nhưng cổ cứ nghẹn lại không thể nào nói được nữa.
Bác hỏi tôi bây giờ đã biết khâu vá giỏi chưa và dặn tôi đã là cô giáo thì không phải chỉ có mình biết mà còn phải dạy cho học trò biết nữa.
Bác vuốt má cháu bé, con tôi, rồi nói tiếp:
- Vừa dạy học, vừa nuôi con, như thế này là giỏi, Bác khen, nhưng phải cố gắng hơn nữa.
Mười ngày sau, Phủ Chủ tịch gửi ra cho tôi bức ảnh Bác đang âu yếm vuốt má cháu bé con tôi. Đó là tấm ảnh quý nhất của cả đời tôi. Hình ảnh đó mãi mãi ở trong con tim khối óc của mẹ con tôi...
Trích từ sách: Nước non bừng sáng. Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)
Nghề thầy giáo rất quan trọng, rất vẻ vang
Một buổi sáng mùa Thu năm 1946, giữa Thủ đô Hà Nội rợp bóng cờ sao, Bác Hồ đến thăm trường tôi, một trường nữ học sinh duy nhất ở Thủ đô.
Tôi quên sao được gương mặt hiền từ và giọng nói ấm áp của Bác. Tôi quên sao được giờ học tiếng Anh của lớp tôi, mà Bác đã vào dự. Tôi được cô giáo gọi lên đọc bài. Không hiểu vì vui sướng, cảm động hay vì quá mất bình tĩnh, tôi đã phát âm sai một vài chỗ. Thế rồi Bác từ từ đi lại phía tôi. Tự nhiên như một bà mẹ hiền âu yếm dạy con tập nói những tiếng nói bập bẹ đầu tiên, Bác đứng sát bên tôi đọc mẫu và nhẹ nhàng uốn nắn cho tôi đọc từng chữ một: “Hao-dơ” (house là cái nhà) cháu chú ý chữ “s”, là như chữ “d” trong tiếng Việt.
Tôi ngoan ngoãn đọc lại “hao-dơ” và Bác động viên ngay:
- Thế, cháu đọc thế mới đúng. Cháu đọc từ tiếp theo.
- “mân-th” (month là tháng).
- Chưa thật đúng. Cháu phải chú ý âm cuối của từ, đây là một loại “âm cổ” là chính chứ không phải “âm lưỡi”. Nếu phiên âm ra tiếng Việt của ta thì nó nửa là “th” và nửa là “ph”. Cháu nghe Bác đọc.
Thế rồi Bác đọc lại để tôi đọc theo cho đến khi tôi phát âm chính xác Bác mới thôi. Sau đó Bác âu yếm xoa đầu tôi và bảo: Bây giờ đã cách mạng rồi thì gái cũng như trai đều phải cố gắng học tập cháu nhé!
Tôi cảm động cúi xuống “Vâng ạ”.
Ôi! Diệu kỳ biết bao buổi đến thăm trường của Bác. Cử chỉ và lời nói giản dị ấy của Bác cũng như những cảm giác mới mẻ về đất nước trong những ngày tháng 8-1945 đã để lại những ấn tượng hết sức sâu sắc trong ký ức tuổi thơ của tôi.
Từ đó về sau, trong từng chặng đường, tôi luôn luôn cố gắng làm theo lời Bác. Và cũng qua từng chặng đường, tôi lại được nghe bạn bè kể thêm những mẩu chuyện về Bác hết sức lý thú.
Giờ đây, tôi đã có nghề, đất nước đang cần có thêm bàn tay khối óc của những đứa con thân yêu. Và cũng mấy năm nay, từ trên đất Pháp nhiều anh chị em trí thức đã trở về Tổ quốc sát cánh cùng nhân dân xây dựng đất nước...
Không đắn đo, suy nghĩ gì khác nữa. “Trở về”, tôi dứt khoát quyết định. Ngửng nhìn lên ảnh Bác, tôi có cảm tưởng như Bác đang mỉm cười bằng lòng với quyết định mới của đứa cháu thân yêu.
Thế là ba tháng sau khi nhận bằng Thạc sĩ toán học, tôi lên đường trở về đất nước, hành lý mang theo của tôi chỉ là hai chiếc vali đựng đầy sách vở cần thiết và một số quần áo thường dùng của hai mẹ con. Lòng thanh thản, tôi bước chân lên máy bay từ giã nước Pháp cổ kính trở về theo tiếng gọi của Tổ quốc, tiếng gọi của Bác Hồ.
Về nước, sau một tuần nghỉ ngơi và thăm hỏi bà con, tôi xin đến nhận công tác ngay ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đây là một trong những trường lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, một trường mà Bác đã trao nhiệm vụ là: ... “Phải biến trường này thành một trường mô phạm cho cả nước noi theo”.
Giữa một buổi sáng mùa Đông, trời hơi lạnh, vẫn trong bộ kaki vàng quen thuộc, Bác đã đến với chúng tôi.
Từ ngày về nước, tôi đã được một số lần gặp Bác trong các buổi chiêu đãi ở Câu lạc bộ quốc tế hoặc Câu lạc bộ Ba Đình. Mỗi lần gặp Bác tôi lại tưởng như mình vừa phát hiện thêm được một điều gì ở Bác mà trước đây tôi chưa hề biết hoặc biết chưa thật cụ thể. Lần này cũng thế, trong lúc Tổng thống Môđibô Câyta nói chuyện, một cán bộ của Bộ Ngoại giao rất giỏi tiếng Pháp đã được cử đến để phiên dịch. Đi giúp việc anh lại có thêm một người tốc ký giỏi. Khoảng bốn mươi phút đầu, chúng tôi thấy anh dịch rất tốt, nhưng sau đó phần vì Tổng thống nói một mạch quá dài mới dừng lại cho anh dịch, phần vì có lẽ thần kinh đã đôi chút căng thẳng cho nên có chỗ anh hơi lúng túng. Tự nhiên, trên hàng ghế đầu, tôi thấy Bác đứng dậy. Bác ghé sát bên tai anh nói nhỏ điều gì và từ lúc đó Bác trực tiếp dịch cho Tổng thống. Từ ngạc nhiên đến khâm phục, chúng tôi cũng tập trung toàn bộ trí lực của mình cố gắng nghe cả lời Tổng thống Câyta nói và lời dịch của Bác. Vẫn những mạch văn rất dài của Tổng thống, Bác dịch lại một cách rõ ràng, rành mạch từng câu. Tôi nhớ lại trước đây trong buổi chiêu đãi nhân dịp kỷ niệm Ngày 2-9-1960 tại Phủ Chủ tịch mà tôi được dự. Trước mắt cán bộ Việt Nam và đông đảo khách nước ngoài, Bác đã phát biểu bằng tiếng Việt và sau đó dịch luôn sang tiếng Nga, rồi tiếng Trung Quốc giữa niềm hân hoan của tất cả các bạn bè quốc tế đến dự.
Đã từ lâu, tôi được nghe nhiều đồng chí nói đến vốn ngoại ngữ phong phú của Bác. Ngày còn ở Pháp, tôi đã có dịp được đọc một số bài báo Bác viết trên tờ "Le Paria" (Người cùng khổ) và cuốn "Bản án chế độ thực dân Pháp" xuất bản ở Pari, một cuốn sách bìa trắng, in chữ xanh mà một kiều bào cất giữ được. Tôi đã có nhiều suy nghĩ về văn phong của Bác và đặc biệt là về vốn từ ngữ tiếng Pháp rất giàu có và độc đáo mà chính chúng tôi, những người đã sống trên đất Pháp, cũng phải ngạc nhiên đến khâm phục.
Cũng trong buổi đến thăm trường sáng hôm đó, Bác đã nói chuyện với anh chị em cán bộ và học sinh chúng tôi. Hội trường lớn tự nhiên hôm nay trở nên nhỏ bé và chật chội lạ.
Như người cha lâu ngày đi xa nay trở về nhà gặp lại những đứa con thân yêu, Bác hỏi han tình hình mấy năm qua kể từ ngày Bác đến thăm trường lần trước (năm 1961). Bác khen chúng tôi đã đạt được hai ưu điểm lớn. Một là "tinh thần khắc phục khó khăn làm tròn nhiệm vụ", hai là "Phong trào thi đua "hai tốt" ở đây làm khá". Tiếp đến, Bác kể cho chúng tôi nghe về thành tích của hai bạn giáo viên miền núi không quản khó khăn gian khổ, đã tận tình đem hết sức mình phục vụ con em các dân tộc ít người. Và Bác kết luận: Đây là những cô giáo, thầy giáo anh hùng.
Trở lại tình hình nhà trường, Bác cũng phê bình chúng tôi hai điểm về vệ sinh và về công tác trồng cây mà Bác đã nhắc nhở. Nhớ lại ngày Bác đến thăm trường hồi đó, mỗi một anh chị em chúng tôi đều không ai quên được tác phong quen thuộc của Bác.
Bước vào cổng trường Bác đã đi đến kiểm tra ngay bếp ăn và chỗ ở của học sinh... Đấy là lần Bác đến thăm trường mà không hề báo trước như lần này. Sáng hôm đó, thầy trò chúng tôi đều đang làm việc trên lớp, tự nhiên nghe tiếng reo to từ phía ngoài: Bác Hồ! Bác Hồ đến! Thế là không ai bảo ai, mọi người đều chạy nhanh về phía Bác. Đoàn người mỗi lúc một đông quây quần quanh Bác, Bác âu yếm giơ tay vẫy gọi chúng tôi. Chúng tôi vui mừng vì thấy Bác hồng hào, khỏe mạnh và đặc biệt là Bác đi bộ rất nhanh. Nhiều anh chị em phải chạy tắt qua các rặng cây đón từng quãng đường để được nhìn thấy Bác rõ hơn.
Bác tiếp tục đi kiểm tra các nơi, đến đâu Bác cũng có lời nhận xét và chỉ bảo cho chúng tôi hết sức tỉ mỉ. Chúng tôi còn nhớ khi đến cạnh một hố giải đã được xây tường cao, quét vôi trắng cẩn thận, Bác còn chỉ thêm: Nên trồng một hàng râm bụt phía ngoài nữa cho kín đáo.
... Về nghề nghiệp của chúng tôi, Bác ân cần chỉ bảo phải thật sự yêu nghề mình, thật sự yêu trường mình. Nhiều anh chị em chúng tôi hết sức xúc động khi nghe Bác nhắc nhở là người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù không được đăng tên tuổi trên báo, không được thưởng Huân chương, song những thầy giáo, cô giáo tốt là những anh hùng vô danh.
Bác đã hiểu được tâm tư của một số anh chị em học sinh chúng tôi khi bước chân qua ngưỡng cửa của Trường Sư phạm. Có anh học sinh đã ở năm thứ hai ngồi trên ghế nhà Trường Sư phạm mà vẫn mơ về Bách khoa, về Tổng hợp.
Bằng câu chuyện về hai giáo viên trẻ vùng rẻo cao và những ý kiến khẳng định về nghề dạy học Bác xác định lại cho anh chị em học sinh chúng tôi quan niệm về nghề nghiệp, về tiền đồ và ước mơ của tuổi trẻ.
Từ trên bục cao của Hội trường, Bác đưa mắt lướt nhanh trên những gương mặt tươi trẻ đang chăm chú hướng cả về phía Bác, háo hức đợi chờ và Bác đã kết luận là nghề thầy giáo rất quan trọng, rất vẻ vang. Ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo thì phải sửa chữa. Cả hội trường vang lên một tràng vỗ tay dài nói lên tất cả niềm hân hoan, phấn khởi của anh chị em chúng tôi. Bác cũng vỗ tay và âu yếm mỉm cười nhìn chúng tôi.
Buổi đến thăm trường năm ấy của Bác để lại trong chúng tôi những ấn tượng hết sức sâu sắc về vinh dự và trách nhiệm của mỗi cán bộ, giáo viên, và học sinh trong nhà Trường Sư phạm.
Sau đó, nhà trường đã phát động rầm rộ một phong trào thi đua sôi nổi chưa từng có thực hiện lời dạy của Bác Hồ, và mỗi một chúng tôi đều tự xây dựng kế hoạch phấn đấu của mình với tất cả tấm lòng kính mến và biết ơn sâu sắc đối với Bác.
Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Bác Hồ đến Đại hội Phụ nữ
Vào một ngày mùa Đông năm 1950, Hội Liên hiệp phụ nữ Cứu quốc toàn quốc mở Đại hội, Đại biểu phụ nữ các liên khu, suốt từ Bắc đến Nam, miền xuôi, miền núi hăm hở băng rừng, lội suối trèo đèo, vượt qua các đồn bốt giặc… về Đại hội.
Đại hội tổ chức tại một điểm thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Lần Đại hội này, tôi được vinh dự đi trong đoàn đại biểu tỉnh Hà Giang thuộc Liên khu 10.
Mấy ngày Đại hội trời râm mát. Nhà hội trường được dựng trong rừng, núp dưới những tán cây rộng, kín đáo. Trong hội trường, các đoàn đại biểu say sưa báo cáo thành tích và suy nghĩ đóng góp ý kiến với Đại hội.
Bỗng một hôm trời hửng nắng. Sắc nắng vàng phơn phớt. Bầu trời trong xanh biêng biếc. Những đám mây xốp trắng bồng bềnh lờ lững trên nền trời. Trong tiết trời mát mẻ chợt có tiếng reo:
- Bác đến! Bác Hồ đến! Bác Hồ muôn năm!...
Cả hội trường dậy lên tiếng vỗ tay, tiếng cười, tiếng reo vui vang cả khu rừng. Các đại biểu đều đứng dậy, hàng trăm con mắt tươi cười nhìn về phía cửa - nơi Bác vào. Những gương mặt hân hoan rạng rỡ. Đại biểu ngồi ở phía dưới hội trường nhích dần lên để được trông rõ Bác. Tôi ngồi ở hàng ghế những đại biểu được biểu dương của Đại hội nên thấy Bác rất rõ. Tôi đứng ngây người nhìn Bác, chốc chốc kêu lên: “Bác! Ôi Bác!” … lòng rộn ràng sung sướng. Thật có niềm vui nào hơn niềm vui tôi được gặp Bác như thế này?
Bác tươi cười bước vào hội trường. Bác đi đôi dép cao su, mặc quần âu, áo bốn túi bằng vải kaki xanh nhẹ đã bạc màu. Có nhiều anh, nhiều chị đi sau Bác, nhưng giữa bầu không khí bấy giờ, tôi không nhớ rõ là có những ai. Bác vẫy tay chào mọi người. Dáng đi của Bác nhanh nhẹn. Đôi mắt Bác sáng và tinh lạ thường. Hội trường vẫn vang lên những tràng pháo tay và những tiếng gọi thân thương”
- Bác! Bác Hồ!...
Bác đi vào ngồi ở hàng ghế giữa trên cùng. Bác quay mặt xuống phía hội trường hỏi:
- Có đại biểu miền núi không? Các cô miền núi ở đâu?
- Thưa Bác có ạ! Thưa Bác đây ạ!
Nhiều chị thưa và trỏ vào tôi để giới thiệu với Bác. Các chị kéo tôi lên ngồi gần Bác.Vài chị khôn khéo tự khai là đại biểu miền núi và nhanh nhẹn ngồi gần tôi để trông thấy Bác được rõ hơn. Tôi đang bối rối thì vừa lúc Bác bảo:
- Cô là đại biểu miền núi thì lên đây.
Bác vừa nói vừa chỉ chỗ cho tôi ngồi. Tôi rất hồi hộp nhưng được Bác khuyến khích lại được các chị ủng hộ, tôi bước lên ngồi gần Bác, Bác hỏi:
- Cô ở đâu?
- Thưa Bác, cháu là đại biểu Hà Giang ạ.
- Dân tộc gì?
- Cháu dân tộc Tày ạ! - tôi thưa.
Bác gật đầu, gương mặt Bác rất vui. Bác hỏi tiếp:
- Phong trào phụ nữ trên ấy thế nào?
- Thưa Bác, phong trào phụ nữ ở Hà Giang mới phát triển được ở thị xã và ba huyện là Bắc Quang, Vị Xuyên và Hoàng Su Phì ạ!
Bác khen thế là tốt và khuyên cần cố gắng phát triển thêm các huyện khác; chú ý phát triển đối với chị em vùng cao, chị em là dân tộc ít người. Xong Bác hỏi:
- Chị em làm những việc gì?
- Thưa Bác, chúng cháu vận động chị em sản xuất, ủng hộ bộ đội, đóng góp lương thực cho Nhà nước; giáo dục chị em đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau…
Tôi trả lời được trôi chảy. Bác cười khen ngợi. Xong Bác nói chuyện với chúng tôi. Bác nói ngắn gọn, giọng rõ ràng, lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ hiểu. Bác biểu dương, động viên Đại hội. Bác nói cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp của toàn Đảng toàn dân ta đã thu nhiều thắng lợi. Chị em phụ nữ các dân tộc đã làm được nhiều việc, góp phần quan trọng cho cuộc kháng chiến. Muốn cho cuộc kháng chiến mau đến thắng lợi và thắng lợi to lớn hơn, chị em phải sản xuất giỏi. Bác khuyên chị em chúng tôi làm tốt công tác phụ nữ, vận động chị em các dân tộc thi đua tốt. Bác hỏi:
- Chị em có làm được như thế không?
- Thưa Bác có ạ! Thưa Bác có ạ…
Cả hội trường vang lên lời đáp. Bác cười. Nụ cười của người cha, ngọt ngào và phúc hậu. Bác nhìn chị em với đôi mắt trìu mến và yêu thương. Bác gần gũi với mọi người quá. Các chị miền Nam, miền Bắc, miền núi, miền xuôi chưa được gặp Bác, lần này được trông thấy Bác, chắc thỏa lòng bao ngày mong ước. Tôi đã được gặp Bác hai lần: Lần đầu được đến thăm Bác tại một ngôi nhà sàn ở Khuối Lịch - Tân Trào. Lần ấy Bác bị mệt. Lần thứ hai tại Vườn hoa Ba Đình vào Ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945. Bác đứng trên Lễ đài đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Giọng Bác ấm áp truyền đi khắp nơi. Bác đem niềm vui lớn đến mọi miền của đất nước. Lần này tôi thấy Bác khỏe hơn, da dẻ hồng hào. Nhưng tóc Bác đã điểm nhiều sợi bạc trắng. Tôi chạnh lòng: “Ôi Bác mình đã cao tuổi rồi!”. Càng nghĩ về Bác, tôi càng thương kính Bác. Bác là niềm tin, là ánh sáng soi đường cho chị em phụ nữ các dân tộc.
Tôi mãi ngồi suy nghĩ về Bác, hội trường dậy lên những tràng pháo tay. Giật mình tôi ngước mắt nhìn lên thì Bác đã bước ra ngoài hội trường cùng các đoàn đại biểu chụp ảnh lưu niệm. Tôi sung sướng cùng đoàn đại biểu Hà Giang được chụp ảnh với Bác. Chụp ảnh xong, Bác đi thăm chỗ ở, nhà ăn của đại biểu.
Bác đến Đại hội Phụ nữ ngày ấy chỉ trong một thời gian rất ngắn, nhưng Bác đã để lại tình thương yêu của lãnh tụ đối với chị em phụ nữ cả nước. Bác bận trăm công nghìn việc, nhưng Bác vẫn quan tâm, lo lắng đến phong trào phụ nữ. Bác động viên Đại hội là làm tốt công tác phụ nữ.
Bông hồng của Bác
Nxb Phụ nữ, 1985, trang 65-69
Những kỷ niệm sâu đậm nhất
Năm 1965, bắt đầu thời kỳ chiến tranh phá hoại của Giônxơn, tôi (Hoàng Thị Mễ) về công tác ở Vĩnh Linh, làm Trưởng ban kiểm tra của Đảng trong khu vực và được cử đi dự hội nghị tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc.
Lần này, đến thăm hội nghị, Bác mặc một bộ ka ki giản dị. Trông người vẫn khoẻ khoắn, nhanh nhẹn. Tôi rất mừng. Bác huấn thị cho chúng tôi nhiều điều hết sức quý báu về công tác kiểm tra, về đạo đức, phẩm chất của người cộng sản. Bác dặn đi dặn lại, đại ý: Công tác kiểm tra có quan hệ đến sinh mệnh của từng người đảng viên. Làm công tác kiểm tra tốt thì có lợi cho Đảng, có lợi cho mỗi đồng chí của ta. Bác nhắc nhở các đại biểu nữ càng phải đi sâu kiểm tra, bảo đảm quyền lợi cho đảng viên phụ nữ. Chúng tôi ghi tạc những lời Bác dạy. Làm công tác kiểm tra không được thành kiến, phải có lượng khoan hồng, đồng thời cần cứng rắn về nguyên tắc. Những lời dạy của Bác thật là quý báu cho chúng tôi và cho đất Vĩnh Linh nóng bỏng lửa đạn quân thù. Ngay từ đầu Bác đã hết sức quan tâm đến mảnh đất này, Bác rất chú ý đến các cháu thiếu nhi và chị em phụ nữ Vĩnh Linh, Bác dặn: Trong cuộc chiến đấu ác liệt này, các cháu Vĩnh Linh là những hạt giống quý, những mầm non xanh tươi, phải được giữ gìn sao cho mầm non đó cứ tươi tốt lên, dù trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào. Bác chỉ thị: Phải sơ tán hết các cháu, không được để cháu nào bị địch giết hại ở Vĩnh Linh. Ngày Tết sắp đến, Bác nhắc các tỉnh phải gói bánh chưng gửi cho các cháu. Riêng Bác, Bác hay gửi bánh kẹo cho các cháu Vĩnh Linh. Cho đến giờ các cháu vẫn nhớ và nhắc đến “Quà Bác Hồ”. Thỉnh thoảng Bác lại hỏi thăm đồng bào và phụ nữ Vĩnh Linh có khoẻ mạnh không, sản xuất chiến đấu và học tập ra sao?
Năm 1968, địch buộc phải ngừng bắn, Bác chỉ thị ngay phải tiếp tế khẩn trương cho Vĩnh Linh, chủ yếu là đường, vải, thuốc. Các xe tải phải chuyên chở cho Vĩnh Linh, Cồn Cỏ và phải coi đây là một công tác rất quan trọng. Hồi đó tôi là Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Vĩnh Linh, được phụ trách phân phối hàng về các xã. Tôi đã chấp hành nghiêm chỉnh lời Bác dạy. Việc phân phối được bảo đảm công bằng, hợp lý, chú ý các cháu mồ côi, các cụ già, bà mẹ các thương binh, bệnh binh…
Nhận được quà Bác cho, đồng bào Vĩnh Linh vô cùng hồ hởi bảo nhau: Chúng ta phải làm gì để tỏ lòng biết ơn Bác.
Riêng tôi, lời dạy của Bác luôn là nguồn khuyến khích, động viên lớn nhất. Nhớ lại những lời dạy bảo của Bác về phẩm chất của người đảng viên, người cán bộ phải hết lòng vì nhân dân phục vụ, lại nghĩ tới tình thương yêu của Bác đối với nhân dân Vĩnh Linh như biển cả, tôi thấy mình có thêm sức mạnh, cùng với anh chị em dân quân, du kích làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Từ kẻ “Xướng ca vô loài” đến người “kỹ sư tâm hồn”
…. Hạnh phúc lớn lao nhất của đời tôi, cái áng hương trong tâm trí tôi mãi mãi không bao giờ phai nhạt, là tôi đã được gặp Bác Hồ! Tên Bác đã làm rung động hàng triệu triệu con tim. Ngày tạm biệt miền Nam, lên đường tập kết, bà con, cô bác giao cho tôi một nhiệm vụ, đơn giản mà rất thiêng liêng: “Có gặp Bác Hồ thì thưa giùm với Bác rằng bà con trong này ngày đêm trông Bác về thăm!". Tuy gật đầu lia lịa sẵn sàng nhận lời, nhưng tôi vẫn thầm nhủ rằng không dễ gì có được vinh dự ấy.
Vậy mà tôi lại được gặp Bác! Năm 1954, đoàn Tuồng khu Năm được vào Phủ Chủ tịch, diễn tuồngChị Ngộ.Anh chị em trong đoàn ai cũng náo nức bồn chồn, nguyện đem hết sức mình diễn cho Trung ương, cho Bác xem. Đứng trên sân khấu, tôi lách nhẹ tâm màn nhung, nhìn ra qua kẽ hở: Bác Hồ! Đó, Bác ngồi đó! Bận quần nâu giản dị, ung dung thanh thản, hiền cách chi là hiền! Tôi tưởng như thưở nào nhìn mình đương đóng vai nường Xuân Hương mà gặp được Tiên ông ban phép thần để có sức mạnh xua tan quân giặc. Rồi chẳng hiểu sao, tôi thấy rào rào trong tim mạch và nước mắt trào ra lúc nào tôi đâu có biết!
Khi diễn lớp chị Ngộ bị giặc bắt buộc phải ôm đầu anh Tài quăng xuống cống, tôi nhìn thấy Bác chống tay lên cằm nghiêng đầu cúi xuống. Tôi lo lo. Đến khi buông màn kết thúc, Bác nắm tay chúng tôi động viên, cổ vũ, đồng chí Trường Chinh mới cho biết là xem lớp đó, Bác nói với các đồng chí ngồi bên rằng: "Thấy giặc quăng đầu đồng chí mình như vậy, Bác đau nhói trong tim, chịu không nổi!". Lời Bác nói đã làm chúng tôi giật mình nhìn kỹ lại, khiến ai cũng ghê sợ lớp tuồng đó. Bác đã thức dậy trong chúng tôi, đã dạy chúng tôi một cảm xúc thẩm mỹ mới. Từ ấy không ai có thể diễn nổi lớp đó nữa, và cũng từ ấy lớp đó được cắt bỏ.
Qua năm 1959, chúng tôi lại được Bác gọi lên lần nữa. Lần này ông Tảo và tôi diễn lớp Trại Ba níu chồng là Địch Thanh. Theo lời đồng chí Lê Văn Hiến kể lại, thì Bác thích lớp tuồng này lắm. Diễn xong, tôi được nắm tay Bác và được nghe lời Bác dạy. Tôi quên sao được cái nhìn trìu mến như cha nhìn con, tiếng nói đượm hơi ấm tình thương của Bác: "Nghệ thuật của cha ông để lại hay lắm, tốt lắm! Phải giữ gìn cho được. Nhưng chớ có gieo vừng ra ngô!".
Có lần Bác đến khu văn công thăm chúng tôi bất ngờ đến mức chẳng ai kịp mở cửa ra đón Bác vào nhà. Bác phải ngồi ngay ở bậc thềm, chờ chúng tôi y như cha mẹ đến nhà chờ lũ con cháu. Chúng tôi đổ ra quây quần bên Bác, một chú lùn của đoàn xiếc cũng lỏm thỏm chạy đến thật nhanh để được kề sát bên Bác. Chẳng biết chú thích thú mê mẩn đến thế nào mà chú sờ hết tay chân đến đầu Bác, rồi còn kéo những sợi râu của Bác như đùa nghịch. Thế mà Bác vẫn ấm giọng từ tốn nói đùa:
- Đừng kéo đứt râu Bác! Một sợi râu một xâu bánh!
Chúng tôi cười ồ lên một lượt, vui cái hồn nhiên, nhân hậu từ con người Bác toả ra. Cũng có lần Bác đến mang theo cả kẹo, già trẻ xúm đông quá, ai cũng chìa tay ra chờ Bác chia kẹo cho mình. Bác nói:... Già thì một, trẻ ăn hai, bé ăn ba bốn. Cứ vậy, Bác phân phát hết cả túi kẹo.
Hôm ấy, tôi được hai cái, và có cháu được đến cả nắm.
Lại có năm, mồng hai Tết, Bác đến mà cả khu văn công vắng ngắt. Thơ thẩn dạo quanh chẳng gặp ai, nghe tiếng nhị réo rắt từ trong một căn nhà lá dội ra, Bác lần bước tới. Vào nhà, Bác đã đứng sát bên cạnh anh Phát đang kéo nhị mà anh chẳng hay biết gì. Bác lên tiếng:
- Hay quá! Chà! chà!
Anh Phát vẫn làm thinh, Bác liền tiếp: Nghệ sĩ say sưa quá hè!
Tưởng đâu bè bạn đến đùa nghịch, anh Phát xẵng giọng: Đi đi, chỉ được cái tổ phá quấy người ta!
Bác lại vỗ vai anh như muốn báo cho anh biết là Bác đến thăm. Không ngờ anh vẫn mải mê vào đàn, gạt bàn tay rồi kêu: Khổ quá, quấy mãi thế!
Bác liền quay người đứng trước mặt anh và cúi xuống hỏi: Chỉ có mình chú ở nhà thôi?
Anh liền ngửng nhìn lên, thình lình quăng cây nhị đi, rồi reo tướng như la làng: Bác! Trời ơi! Bác!
Nghe tiếng anh la, tôi mới lật đật chạy sang ôm chầm lấy Bác, nước mắt cứ trào ra. Thế đấy, Bác đã đến với chúng tôi và chúng tôi đến với Bác như thế đấy, không lần nào gặp Bác mà tôi nín được nước mắt.
Tôi khóc vì tình thương của Bác quá lớn; đó cũng là những giọt nước mắt tiễn đưa cái kiếp “xướng ca vô loài” thời nô lệ, để đón nhận cái vinh quang được làm người nghệ sĩ cách mạng, người kỹ sư tâm hồn mà Đảng đã giao cho…
Trích theo sáchNgười là Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995
Tiếng hát bay xa
... Ngày Thủ đô mới được giải phóng, tôi còn ở Đội thiếu nhi, tôi rất mê hát. Tôi đã đoạt giải nhất hai năm liền trong các cuộc thi “Tiếng hát thiếu nhi”. Một lần chúng tôi biểu diễn ở Ấu-Trĩ-Viên, sau này là Câu lạc bộ thiếu niên, đã được Bác Hồ đến xem. Bác khen và thưởng cho chúng tôi kẹo bánh. Chúng tôi ríu rít vây quanh Bác. Bác thương yêu chúng tôi như một người ông hiền từ đối với đàn cháu nhỏ. Đó là lần đầu tiên tôi được ở gần Bác Hồ. Sau đó tôi còn có dịp cùng các bạn đến vui chơi với Bác ở Phủ Chủ tịch nhân những Ngày Tết thiếu nhi 1-6 hay Trung thu.
Tôi còn nhớ Trung thu năm 1957, 1.000 thiếu nhi Thủ đô đã được đến Phủ Chủ tịch vui Tết trông trăng với Bác Hồ. Chúng tôi múa, chúng tôi hát, tham dự các trò chơi trong ánh đèn màu lung linh. Hôm đó Bác nói với chúng tôi:
- Bác căn dặn các cháu hãy cố gắng học tập tốt hơn nữa, phải biết tôn trọng kỷ luật của trường, của đội thiếu niên, chú ý đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, hăng hái lao động tập thể, nhắc nhau tránh xem tiểu thuyết nhảm nhí vừa mất thì giờ, vừa có hại...
- Nhớ lời Bác, tôi gắng học chăm và càng say mê tập hát. Năm 17 tuổi, tôi vào học ở trường nhạc. Tốt nghiệp, tôi về công tác ở Đoàn Ca múa nhân dân Trung ương.
Tháng 3-1959, chúng tôi được vào biểu diễn ở Phủ Chủ tịch trong dịp Bác Hồ đón tiếp Tổng thống Ấn Độ Praxát. Bác khen ngợi và nhắc nhủ chúng tôi cố gắng trau dồi nghệ thuật để giới thiệu nền nghệ thuật dân tộc ta ra thế giới.
Chất giọng của tôi phù hợp với những bài dân ca hoặc những ca khúc có âm điệu dân ca. Bài thi tốt nghiệp của tôi là bàiTrăng sáng đôi miềnvàLời ca gửi noọng. Lời dặn dò của Bác giúp tôi thêm yên tâm đi theo hướng này. Tôi hát cò lả, quan họ và nhiều làn điệu dân ca khác. Bài “Người ở đừng về”, cải biên dân ca quan họ, tôi đã hát nhiều lần, được coi là có khám phá sáng tạo. Bài hát nhanh chóng chiếm được cảm tình của người nghe, có chỗ đứng trong các chương trình biểu diễn của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp cũng như nghiệp dư.
Năm 1969, chúng tôi đi biểu diễn một chuyến dài ngày ở Pháp, Italia, Angiêri, Liên Xô, Trung Quốc, giới thiệu nền ca múa nhạc dân tộc của ta. Ở đâu đoàn ta cũng được hoan nghênh nhiệt liệt, nhất là ở Italia, một đất nước còn ít nhiều xa lạ với ta lúc đó. Mỗi tiết mục hay của đoàn trình diễn đều được khen ngợi bằng hàng tràng vỗ tay sôi nổi, kéo dài tưởng như đến vỡ nhà hát, trên các hàng ghế lại xuất hiện những lá cờ đỏ sao vàng vẫy vẫy cùng với các tiếng hô đều nhịp:
- Việt Nam! Hồ Chí Minh! Hồ - Hồ - Hồ Chí Minh!
Chúng tôi biết, chúng tôi được hoan nghênh như vậy không phải chỉ là vì tài nghệ của mỗi người mà chính là vì có cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta, chính vì có Bác Hồ, một lãnh tụ kiệt xuất mà thế giới hằng ngưỡng mộ, đã đem lại niềm vinh quang cho mỗi người chúng tôi.
Tháng 7, về nước, chúng tôi được tin sẽ đến báo cáo với Bác về kết quả chuyến đi biểu diễn vừa rồi. Mọi người đều mừng rỡ muốn kể lại thật tỉ mỉ với Bác về sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân ta, về tình cảm của nhân dân các nước với Bác. Chúng tôi không khỏi bồi hồi lo lắng vì thấy Bác đã yếu đi nhiều, càng thấy thương Bác vẫn vất vả lo toan việc nước chưa được một phút nghỉ ngơi. Nhưng Bác dáng vẫn nhanh nhẹn, mắt vẫn sáng ngời đôn hậu, lời nói vẫn rành rọt, vui tươi hóm hỉnh. Vẫn như những lần gặp trước, Bác chủ động, ân cần thăm hỏi chúng tôi. Chúng tôi lại được quây quần quanh Bác. Một đồng chí trong đoàn nói với Bác, ở Angiêri, ở Italia mỗi lần tiết mục của ta hay, họ vỗ tay đến vỡ nhà hát và hô tên Bác kéo dài, chúng cháu không sao nén được sung sướng, tự hào.
Bác hỏi lại: Được khen như thế có phổng mũi không?
Chúng tôi đều cười vui vẻ và biết rằng đó là Bác có ý nhắc nhở chúng tôi đừng có chủ quan, tự mãn. Bác chuyện trò với mọi người và tự tay tặng thưởng Huy hiệu Bác Hồ cho một số anh chị em trong đoàn. Tôi sung sướng được nhận phần thưởng vinh dự này. Lòng bồi hồi xúc động, tôi tự thầm hứa: Cháu nhất định phải cố gắng hơn nữa để đáp lại tấm lòng thương yêu của Bác.
Chúng tôi không ai ngờ rằng lần gặp Bác đó lại là lần cuối cùng. Tin Bác qua đời đột ngột đến với tôi chưa đầy hai tháng sau. Ôi! Đau thương biết chừng nào. Tôi đã khóc thực sự trong những ngày tang lễ Bác. Phải làm gì trong những ngày đau thương này để đền đáp công ơn của Bác? Bài hátTrông cây lại nhớ đến Ngườicủa nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã đến với tôi. Tôi miệt mài tập một mình, vừa hát vừa cố cầm cho không chảy nước mắt. Hôm trình bày trước các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi tự nhắc mình phải thật bình tĩnh.Trông cây tôi lại nhớ tới Người... - tôi hát. Làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh ấy cuốn hút tôi nhớ lại hình bóng Bác. Cả hội trường lặng đi, im phăng phắc.
Mắt tôi tự nhiên nhòe đi. Tôi thoáng nghĩ không được khóc. Nhưng nước mắt tôi đã ứa ra, giọng tôi nghẹn lại. Trong óc tôi bỗng vút qua hình ảnh Bác những lần tôi được gặp, Bác cho tôi kẹo... xoa đầu tôi... ánh đèn sân khấu rực rỡ, lung linh bóng cờ Tổ quốc... những tiếng hô Hồ Chí Minh kéo dài... Lần đầu tiên tôi biểu diễn bị ngắt lại ở giữa chừng. Tôi thoáng thấy các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và nhiều các đồng chí lãnh đạo khác rút khăn lau nước mắt. Phải một lát sau tôi mới hát tiếp được...
Năm tháng qua đi, là một nghệ sĩ, tôi đã đi phục vụ đồng bào, chiến sĩ, ở ngoài mặt trận, nơi hậu phương, nhà máy, ruộng đồng không quản ngại. Nhớ mãi lời Bác dặn, hãy mang tiếng hát đến với đồng bào, với các chiến sĩ. Chính Bác đã chắp cánh cho tiếng hát của tôi không ngừng bay xa…
Trích theo sách: Bác Hồ với Ba Đình,
Ban Chấp hành Đảng bộ
Đảng Cộng sản Việt Nam Quận Ba Đình, Hà Nội, 1986
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)
Sống trong muôn vàn tình thương của Bác Hồ
Thoát khỏi cảnh ngục tù tăm tối, dã man của bọn xâm lược Mỹ, tôi được đưa ra miền Bắc chữa bệnh. Từ những ngày đầu tháng 11 năm 1958, tôi nằm điều trị tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô. Đã mấy lần Bác vào Bệnh viện thăm mà tôi cứ mê man không hay biết gì cả! Lúc tỉnh dậy, có chị thương tôi quá không giấu được nỗi vui mừng, luyến tiếc ấy, bèn kể lại là Bác đến thăm tôi. Tôi khóc òa lên như một đứa trẻ thơ xa mẹ. Một hôm, tôi vừa mở mắt ra, thì thấy một bác sĩ già khoác chiếc áo bờ-lu trắng đứng cạnh giường đang nhìn tôi âu yếm, với nụ cười hiền hậu. Sau giây phút ngỡ ngàng tôi nhận ra Bác, tôi nắm chặt bàn tay Bác và khóc nấc lên. Đúng Bác Hồ rồi, người mà các cô chú trong nhà tù và bà con ở miền Nam hằng ước mơ được gặp. Bác cúi hôn trán tôi. Tôi khóc to hơn và gọi: “Bác ơi, các cô chú trong nhà tù và đồng bào miền Nam mong nhớ Bác lắm!”. Tôi ngất lịm đi. Lúc tỉnh dậy, các chị kể lại là nhìn thấy tôi trong cơn mê sảng Bác không cầm được nước mắt. Đó là buổi tối ngày 14-11-1958, cái ngày không bao giờ phai mờ trong tâm trí tôi. Tình thương bao la của Bác luôn luôn sưởi ấm lòng tôi. Tôi thấy như thêm sức mạnh để chiến đấu với bệnh tật.
Thế là ước mơ được gặp Bác của tôi đã thành sự thật. Ước mơ đó, tôi ấp ủ từ ngày má tôi thường gọi là "bé Nhâm". Hồi ấy, tôi ở trong hàng ngũ thiếu nhi cứu quốc. Tôi ước mơ được gặp Bác Hồ, như bạn tôi là Kim Phú được dâng hoa lên Bác ngày 2-9-1945, tại Thủ đô Hà Nội. Bạn Phú về kể lại cho tôi nghe chuyện Bác Hồ, người ông yêu quý của các cháu thiếu niên, nhi đồng. Từ đó, tôi có cảm giác Bác Hồ là người ông trong nhà.
Được sự quan tâm, săn sóc rất mực tận tình của Bác, của Đảng, được sống trong tình thương yêu ruột thịt không bờ bến của đồng bào miền Bắc, và cả sự chia sẻ đau thương của nhân dân thế giới, thân thể tôi lần lượt lành khỏi 42 vết thương do giặc gây ra, sức khỏe tôi dần dần hồi phục. Tôi được đưa về nghỉ dưỡng sức ở một nơi yên tĩnh. Thỉnh thoảng tôi được Bác gọi vào nơi Bác ở.
Bác hỏi về quê quán và bệnh tình của tôi. Bác hỏi thăm sức khỏe các cô chú, anh chị cùng ở nơi an dưỡng với tôi. Tôi kể Bác nghe tình hình đời sống và đấu tranh của chị em phụ nữ miền Nam. Bác cầm tay tôi và nhẹ nhàng xoa bóp các vết sẹo. Bàn tay Bác rung rung. Tôi nhìn Bác, định không kể lại sự tra tấn dã man của giặc, sợ Bác xúc động. Đột nhiên Bác hỏi:
- Chúng nó xâu tay cháu với bao nhiêu người khác?
Tôi giật mình. Sao Bác biết? Rồi tôi dè dặt thưa:
- Dạ, hơn bốn mươi chú...
Thấy tôi ngập ngừng, Bác lại nhắc:
- Cháu kể tiếp đi. Tôi thầm nghĩ, không thể giấu Bác được, tôi thưa:
- Sau những trận đòn tra tấn dữ dội, các chú chân bị cùm, tay bị xâu dây thép cùng với cháu, độ vài ngày sau lên cơn giật rồi chết dần, chết mòn... Chỉ còn lại một mình cháu. Cháu cũng không hiểu tại sao cháu lại không chết.
- Tại sao cháu bị chúng tra tấn dã man mà cháu cũng không khai?
- Cháu nghĩ là nếu cháu khai thì sẽ mất hết tình thương của cách mạng, của Bác và của các chú, các cô đã đùm bọc, dạy dỗ cháu lúc cháu ở trong tù. Cháu khai thì cháu có tội với đồng bào. Lúc nào cháu cũng thấy hình ảnh Bác ở trước mặt cháu. Có lúc cháu nằm mơ thấy Bác đứng hai tay chống nạnh trước quân thù, bọn chúng nhìn Bác hoảng sợ chạy hết và cháu được tự do, sung sướng... Có lúc cháu mơ thấy Bác lấy khăn chặm nước mắt khi Bác nhìn cảnh tra tấn cực kỳ tàn ác của giặc Mỹ và lũ tay sai đối với chúng cháu...
Nói đến đây, tôi úp mặt trong lòng bàn tay Bác, tôi khóc như một em bé. Bác nâng nhẹ đầu tôi lên. Bác rơm rớm nước mắt nói:
- Nghĩ đến cháu, mọi người đều căm thù sâu sắc chế độ Mỹ - Diệm ở miền Nam.
Mỗi lời nói, mỗi ánh mắt, mỗi cử chỉ nhỏ nhất của Bác khắc sâu vào tâm trí tôi. Trong giờ phút thiêng liêng này, tôi không thể không nhớ lại những lúc ở tù, gian khổ, đấu tranh với kẻ thù, chúng tôi chiến thắng được là nhờ có hình ảnh Bác trong trái tim. Bây giờ được thật sự ngồi bên Bác, càng nhìn Bác tôi càng nhớ đến các đồng chí ở trong Nam luôn luôn hướng về Bác để có thêm sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Biết bao nhiêu đồng chí bị tù đày, tra tấn, biết bao nhiêu cán bộ hoạt động trên khắp miền Nam chưa một lần được gặp Bác. Tôi có vinh dự lớn hôm nay là do bao xương máu của đồng bào miền Nam đã đổ xuống trên mảnh đất Thành đồng. Bác kể cho tôi nghe những mẩu chuyện lúc Bác hoạt động ở nước ngoài, những mẩu chuyện trong thời kỳ kháng chiến để động viên, cổ vũ tôi cũng như phụ nữ, thanh niên miền Nam dù hy sinh gian khổ đến mấy cũng luôn luôn phát huy truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc ta, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ và bè lũ tay sai. Bác căn dặn tôi phải luôn luôn vui vẻ, lạc quan để chiến thắng bệnh tật.
Tôi thường được các chú dặn: Hễ gặp Bác thì nhớ kể cho Bác nghe những chuyện vui, đừng kể những chuyện đau thương làm Bác xúc động. Nhưng tôi không tài nào giấu Bác được điều gì. Bác hỏi tỉ mỉ về tình hình gia đình, quê hương tôi. Bác biết tôi ra miền Bắc chữa bệnh xa mẹ hiền, người mẹ đã chịu nhiều đau khổ, đang khát khao được có ngày gặp lại con gái thân yêu, và xa bà con ruột thịt, xóm làng. Có lúc Bác thấy tôi ngồi thờ thẫn, dường như suy nghĩ điều gì. Bác liền hỏi:
- Sao cháu lại buồn? Cháu nhớ mẹ à?
Bác hỏi chuyện về chị Trần Thị Vân, một người vừa là chị vừa là bạn chiến đấu thân thiết của tôi. Trước đây, có nhiều tin là chị Vân đã hy sinh, sau khi bị địch tra tấn dữ dội. Nhưng thật ra, chị đã vượt qua mọi thử thách ác liệt, bám chắc lấy cuộc sống cho đến ngày trở về với phong trào. Tôi kể cho Bác biết chị Vân đã bị giặc bắt cùng với đứa cháu gái. Bọn chúng chưa nhận được ai là Trần Thị Vân trong hai người. Thế là cô cháu gái liền nhận mình là Vân. Địch giết người cháu gái và chị Vân đã thoát khỏi bàn tay đẫm máu của chúng. Nghe tôi kể, Bác xúc động nói:
- Hành động của các cháu thật anh hùng. Phụ nữ miền Nam rất anh hùng.
Sau này, chị Vân được ra thăm miền Bắc và ở lại chữa bệnh. Chị đã được gặp Bác Hồ.
Bác biết tôi cố gắng học văn hóa, nhưng còn kém về văn. Nhiều lần tôi vào thăm Bác, Bác dặn:
- Cháu kém về văn thì phải chăm xem sách, đọc báo, đọc xã luận, nghe các chú nói chuyện. Đọc báo có đoạn nào hay thì đánh dấu vòng lại. Lúc khác cần, đọc lại. Đó là một cách học. Học từ từ, kiên nhẫn.
Bác bảo tôi tập viết thư, viết cho Bác. Một lần đi điều trị ở nước ngoài, tôi nhận lá thư đầy tình nghĩa của Bác và tôi trân trọng viết thư về thăm Bác. Tôi chỉ viết được mấy dòng cụt ngủn: "Thưa Bác, hiện nay cháu đang điều trị. Sức khỏe cháu tốt. Các bác sĩ chuẩn bị mổ vết thương cho cháu. Nghe lời Bác dặn, cháu yên tâm chữa bệnh. Bác đừng lo cho cháu"... Tôi moi óc không biết viết thêm gì nữa cho Bác vui. Các chú cười: "Sao viết ngắn thế!"
Khi về nước, tôi đến thăm Bác, được Bác khen:
- Cháu viết, văn không lòng thòng, ngắn gọn, thế là tốt. Bác nghe các chú bảo là từ lớp hai tôi đã cố gắng khắc phục khó khăn về bệnh tật, học bổ túc văn hóa hết lớp 8. Bác mừng lắm. Nhưng Bác khuyên tôi là không nên học nhiều trong lúc sức khỏe chưa vững vàng. Bác bảo: Phải nghe lời bác sĩ, chữa lành bệnh rồi hãy học. Cháu không sợ lạc hậu đâu. Miễn là ta sẵn có tinh thần.
Mỗi lần tôi vào thăm Bác, Bác thường cho tôi ăn cháo đậu xanh vì tôi không ăn được cơm. Lần nào, Bác cũng thấy tôi ăn ít quá, nhìn tôi, Bác lo lắng, thương xót, và nói:
- Cháu ăn ít lắm, phải gắng ăn nhiều hơn. Cháu còn xanh quá, cháu cố gắng ăn nhiều cho chóng khỏe! Những bữa cơm của Bác thật thanh đạm, giản dị như bữa cơm của bao gia đình chúng ta. Nhiều lúc, Bác dắt tôi đi dạo chơi trong vườn Phủ Chủ tịch. Bác không đưa tôi đi trên những con đường sỏi vì Bác biết chân tôi dẫm trên sỏi thì ảnh hưởng đến vết thương trên đầu. Bác chỉ cho tôi những cây dừa, cây bưởi, cây cam Bác trồng.
Tôi thường đeo một sợi dây chuyền giấu kín trong cổ áo. Sợi dây chuyền không làm tăng vẻ đẹp, không che được những vết sẹo do địch gây nên trên cổ, trên vai tôi, nhưng đó là sợi dây gắn bó hai đứa chúng tôi trong cuộc chiến đấu chung, một mất một còn với quân thù xâm lược. Tôi thưa với Bác, tôi đã viết thư về nhắn với người yêu nhiều lần rằng: Anh hãy quên Lý đi vì thân thể Lý bị tàn phế rồi. Anh nên xây dựng gia đình với người khác để bảo đảm hạnh phúc...". Nhưng anh không chịu. Anh vẫn đợi chờ! Bác dạy tôi rằng: - Ăn ở phải có tình, tình nhà, nghĩa nước, tình yêu thương giai cấp. Phải có tấm lòng chung thủy. Bác rất vui khi nói đến các mối tình chung thủy. Một hôm, Bác nghe tin người yêu của tôi đã ra miền Bắc, Bác tặng cho tôi hai trái táo để mang về cho người yêu một trái.
Có lần bác sĩ thấy bệnh tình của tôi kéo dài do vết thương ở bụng vẫn thường rỉ máu và cho biết nếu mổ dạ con thì đỡ ảnh hưởng đến sức khỏe. Tôi muốn mổ cho đỡ khổ nhưng nghe vậy Bác không đồng ý. Bác nghĩ đến tương lai hạnh phúc của đời tôi. Tình thương của Bác đối với tôi thật không bờ bến. Tôi hiểu rằng Bác dành tình thương đó không chỉ riêng cho tôi mà cho toàn thể phụ nữ, thanh niên và đồng bào miền Nam gian khổ đi trước về sau.
Tôi còn nhớ một chiều xuân 1968, tôi lại được vào thăm Bác. Các chú cho tôi đến trước giờ hẹn. Bác đang làm việc trên chiếc Nhà sàn đơn sơ. Tôi rón rén vào đứng sau lưng Bác. Bác đã biết, nhưng không quay lại, Bác bảo:
- Lý đó à. Cháu chờ Bác làm việc xong, một tí thôi!
Tôi thưa với Bác: Thưa Bác! Bác làm việc nhiều quá. Tuổi Bác ngày càng cao. Bác giữ gìn sức khỏe để vào thăm đồng bào miền Nam... Bác xúc động nói:
- Bác phải làm việc nhiều thì miền Nam mau thống nhất, Bác sẽ vui nhiều, khỏe nhiều.
Tôi ứa hai hàng nước mắt và thẫn thờ ngồi nhìn Bác làm việc, lòng nghẹn ngào, không dám nói thêm với Bác một lời nào. Ôi, suốt cuộc đời của Bác, Bác đã đặt hết tâm lực vào cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Từng giờ, từng phút, Bác lo cho miền Nam. Bác đã hy sinh hạnh phúc cá nhân vì nghĩa cả dân tộc.
Trích từ sách: Nước non bừng sáng. Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Ở ngôi nhà 48 Hàng Ngang
Quê tôi ở Kim Lũ, gọi nôm là làng Lủ, nhưng cha mẹ tôi có cửa hiệu Vạn Tường ở số nhà 21 Hàng Đào... Trong những ngày đầu tháng đến trung tuần Tháng Tám, đặc biệt là sau những ngày phát xít Nhật đầu hàng thì tình hình ngoài phố vừa nhộn nhịp vừa căng thẳng vì có nhiều đảng phái hoạt động nhộn nhịp, vì không khí Tổng khởi nghĩa đang lan tràn khắp nơi...
Ngôi nhà 48 Hàng Ngang xưa là ngôi nhà có hai tầng làm theo lối cổ. Tôi đã cho sửa lại thành 4 tầng... Cũng mãi về sau này tôi mới biết rằng các đồng chí Trung ương Đảng sở dĩ chọn nhà tôi để đến ở và làm việc vì trước hết nhà tôi là một cơ sở đáng tin cậy, sau nữa vì nó ở giữa một phố buôn bán sầm uất, người đi kẻ lại lúc nào cũng đông đúc và ngay chính nhà tôi khách hàng cũng ra vào nhiều nên khó phân biệt được ai với ai. Một buổi sáng đồng chí Trường Chinh bảo tôi:
- Chị chuẩn bị thêm cho một phòng để đưa mấy cụ già đến ở.
Tôi nhớ lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nhà tôi, Người mặc rất giản dị: Áo nâu, quần soóc nâu, đội mũ dạ, đi dép cao su Con hổ trắng và tay cầm can... Tôi rất chú ý đến việc ăn uống của Chủ tịch và các đồng chí Trung ương nên thường đứng ra trông coi và luôn thay đổi món cốt sao cho mọi người ăn ngon miệng.
Một hôm quãng 9h sáng, tôi mua được mấy quả bưởi Nghệ. Tôi gọt bưởi, pha nước, rồi chính tay tôi mang lên phòng Chủ tịch làm việc. Lúc ấy, Người đang ngồi đánh máy. Người bảo tôi cùng ăn rồi vừa ăn bưởi, Người vừa bảo tôi:
- Cô thật là sung sướng, cha mẹ, con cái đầy đủ, nhà cửa đàng hoàng, chả có gì phải khổ cả!
Không hiểu sao lúc đấy tôi lại nghĩ đến người phu kéo xe bị thằng Tây say ngồi trên xe đá giày Tây vào gáy gục xuống vệ đường, tôi nghĩ đến những người hàng rong bị bọn đội xếp Tây đánh bằng dùi cui làm cho gánh hàng còm cõi đổ tung tóe, tôi nghĩ đến việc cha tôi bị Pháp bắt giam và nhất là khi những lời cha tôi nói cho tôi biết thế nào là cái nhục của một người mất nước.
Vì thế, tôi thưa với Người:
- Thưa Cụ, cháu cũng có cái nhục của một người dân mất nước.
Tôi thấy Người im lặng, một lát sau Người mới hỏi tôi:
- Thế bây giờ cô đang làm công tác gì?
- Thưa Cụ, cháu làm ở chỗ chị Diệu Hồng, Hội Phụ nữ cứu quốc.
Người thân mật dặn tôi:
- Làm gì cũng phải kiên trì nhẫn nại cô ạ!
Tôi nhắc lại lời căn dặn ấy của Người:
- Vâng, thưa Cụ, làm gì cũng cần phải kiên trì nhẫn nại ạ!
Tôi ghi nhớ mãi lời dặn dò ấy của Người và lời dặn dò ấy đã có tác dụng rất lớn trong suốt cuộc đời tôi, đặc biệt là trong 9 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ...
Những ngày tháng đầu tiên sục sôi khí thế cách mạng đó trôi đi rất nhanh. Cái Tết đầu tiên của một đất nước độc lập cũng đã đến và một kỷ niệm sâu sắc không thể nào quên bởi nó là vinh dự lớn một lần nữa đến với gia đình tôi vào tối 30 Tết năm đó.
Hôm ấy, khi vợ chồng tôi cùng anh Hồng Lĩnh (Nguyễn Khánh Toàn) và vợ chồng anh Khuất Duy Tiến vừa ăn uống xong, tôi bỗng nghe thấy tiếng mở cửa ở dưới nhà, tiếp đó là tiếng chân nhiều người bước lên thang. Anh Nguyễn Khánh Toàn chạy ra và anh bỗng reo lên:
- Ô, Bác!
Thế là tất cả chúng tôi chạy ồ ra đón Người. Thấy chúng tôi, Người nói:
- Chào các cô, các chú...
Khi tất cả đã tập trung ở phòng khách và sau khi thăm hỏi, Người nói:
- Hôm nay là năm mới - Người cười giải thích - Tuy chưa đến năm mới nhưng sắp sang năm mới, nên cũng gọi là năm mới -Năm mới chúc mọi người thật khỏe mạnh này, làm việc thật hăng say này, và ăn Tết thật ngon lành nhưng tiết kiệm...
Người cũng không quên chúc mừng sức khỏe của mẹ chồng tôi, người cao tuổi nhất trong nhà. Cho đến mãi sau này, mẹ chồng tôi vẫn thường bảo vợ chồng tôi và các cháu rằng:
- Một vị Chủ tịch nước mà sống giản dị, tình cảm, gần gũi nhân dân như thế đấy!
Những tình cảm quý báu của Người dành cho gia đình tôi thật quá to lớn, điều đó khiến tôi càng hăng hái tham gia các công việc xã hội hơn. Đó cũng là điều giải thích tại sao gia đình tôi lại đóng góp gần như toàn bộ tài sản và cuộc đời mình cho cách mạng, cho cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, giành Độc lập cho đất nước.
Trong suốt cả cuộc kháng chiến, nay đây mai đó, nhiều lúc vô cùng gian khổ nhưng tôi không một phút nản lòng, bởi tôi luôn nhớ lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dặn dò tôi: Phải kiên trì, nhẫn nại...
Theo lời kể của bà Hoàng Thị Minh Hồ - tức bà Trịnh Văn Bô, Bác Hồ với Phụ nữ Hà Nội, NXB Hà Nội, 1985, tr. 23.
Vượt cả ước mơ
Những ngày giáp Tết năm 1956, Đoàn Văn công Tây Nguyên chúng tôi bàn nhau chuyện tổ chức Tết. Anh thì nêu vấn đề tổ chức nhiều món ăn dân tộc để có thêm mùi vị quê hương. Chị thì bàn nên tranh thủ đi xem các nơi thắng cảnh để hiểu thêm phong cảnh đất nước. Có đồng chí đề nghị nên đi thăm các bạn đồng hương ở xa Hà Nội, lại có đồng chí gợi ý nên tổ chức nhiều trò chơi dân tộc. Thật là có nhiều ý kiến, chỉ e không đủ thì giờ thực hiện.
Đang lúc chúng tôi rất lúng túng và liên tưởng đến những cái Tết trước đây ở Tây Nguyên, được ăn các món dân tộc, họp mặt với gia đình và bè bạn hoặc đi nổ súng vào đầu giặc Pháp để thay pháo đầu Xuân, thì được tin Bác cho chúng tôi quà Tết. Bác cho một thứ mà chúng tôi đang ao ước, đó là một con nai. Bác còn viết thư cho chúng tôi, đại ý tôi còn nhớ được là: “Thấy các cháu ra ngoài này lâu không được ăn thịt thú rừng nên Bác gửi cho các cháu con nai để ăn Tết”.
Nghe xong thư Bác, lòng chúng tôi vô cùng xúc động. Nhớ lại lúc bảy tám tuổi, mỗi khi bố mẹ có những thứ ngon lành gì hoặc đi săn bắn được các thú rừng về thường để dành thịt cho con hay nhường cho con trước. Bây giờ Bác đối với chúng tôi cũng thế nữa và còn hơn thế nữa. Bác bận trăm công nghìn việc, vậy mà Bác vẫn luôn nghĩ đến chúng tôi, biết rõ cả những ước mong về sinh hoạt, và khi nhân dân biếu Bác con nai để ăn Tết, Bác lại gửi ngay cho chúng tôi. Đến bữa ăn, khi gắp miếng thịt nai, tôi vừa xúc động, vừa cảm thấy hương vị của nó ngon ngọt vô cùng.
Hồi tưởng lại lúc chưa ra tập kết, tôi cũng như nhiều anh chị em khác, chỉ có một ước mong duy nhất là được gặp Bác một lần thì dù trong công tác có hi sinh đi nữa cũng không hề chùn bước.
Ước mong của chúng tôi lúc đó mới có thế, chứ đâu dám nghĩ đến chuyện được ăn quà Tết của Bác hay được hưởng nhiều sự săn sóc, dạy bảo trực tiếp của Bác.
Thật vậy, khi chúng tôi vừa mới đặt chân lên miền Bắc được một hôm, đang nhiều bỡ ngỡ với phong cảnh Sầm Sơn thì Đảng, Chính phủ, nhân dân miền Bắc đã chăm lo cho chúng tôi mọi thứ, tỏ rõ lòng thương yêu chúng tôi vô hạn. Riêng Bác, Bác lại cho ngay chúng tôi một món quà đặc biệt: Mỗi người một chiếc áo da rất đẹp. Qua lời đồng chí cán bộ mậu dịch đến đo may cho chúng tôi, thì đây là một tặng phẩm đặc biệt của Bác cho Đoàn Văn công Tây Nguyên. Đã mười năm nay, tôi giữ chiếc áo ấy còn như mới may để sau đây, khi trở về quê hương, tôi sẽ đem nó ra nói chuyện với mọi người.
Được Bác Hồ cho áo rồi, tôi lại nghĩ đến chuyện gặp Bác. Lúc này tôi tin tưởng là nhất định sẽ được gặp, nhưng chưa mường tượng nổi là sẽ gặp Bác trong khung cảnh nào. Ước mong này đã thành sự thật và đến nhanh hơn cả dự đoán của tôi. Sau khi trú quân ở Sầm Sơn mấy hôm thì chúng tôi được lệnh chuyển về Hà Nội và được gặp Bác ngay.
Tôi còn nhớ rất rõ buổi tối hôm đó ở Phủ Chủ tịch. Trong lúc chúng tôi đang mải mê hóa trang thì thấy mấy tiếng “Bác! Bác” vang lên trong phòng và thấy một số chị em vội vã chạy ùa ra cửa. Tôi còn đang ngơ ngác chưa biết việc gì thì thấy một chị đứng bên bảo tôi: “Bác đến, Bác đến”! Tôi hiểu ra là Bác đến thăm chúng tôi. Mơ ước của tôi đã thành sự thật. Vì sự việc đến bất ngờ quá nên tôi phân vân không biết nên chạy đến gần Bác hay đứng tại chỗ để nhìn Bác. Tôi cũng quên cả việc chào Bác mà cứ đứng nhìn xem Bác có khỏe không, có giống như ảnh chụp không? Trong lúc tôi đang đứng ngay ra thì nghe tiếng Bác gọi:
- Các cháu Tây Nguyên đến bắt tay Bác.
Nghe tiếng Bác gọi, tôi bồi hồi quá, vội vàng đến gần để được bắt tay. Bắt tay chúng tôi xong, Bác thong thả đi ra ngoài. Lúc này, tôi càng xúc động, chảy cả nước mắt mà vẫn nhìn theo Bác. Tôi cảm thấy vẫn chưa được nhìn rõ Bác vì thời gian được nhìn Bác quá ít, mặc dầu tôi đã được đứng gần Bác và bắt tay Bác.
Một việc nữa làm tôi xúc động hơn và cũng chưa bao giờ nghĩ tới là sau khi chúng tôi biểu diễn xong một tiết mục, Bác thấy chúng tôi mặc áo cộc tay, liền thân mật bảo ngay:
- Các cháu mặc ngay áo bông vào không thì bị sưng phổi đấy
Khi chúng tôi mới trình diễn được nửa chương trình thì Bác lại bảo chúng tôi nghỉ. Bác nói:
- Diễn như vậy là đủ, các cháu mới ra tập kết chưa quen chịu lạnh, nếu làm việc nữa sẽ bị ốm đấy.
Bác lại cho chúng tôi ăn kẹo bánh và dặn chúng tôi:
- Cháu nào không ăn hết thì lấy đem về nhà.
Lúc đó tôi và nhiều anh chị em khác trong đoàn rụt rè không ăn cứ chăm chú nhìn Bác. Thấy vậy, Bác bảo chúng tôi:
- Các cháu cứ ăn tự nhiên, ăn không hết thì đem về nhà cho các bạn, và nhớ phần cho cả các đồng chí lái xe nữa.
Thấy Bác nhắc nhở và nhìn thấy các bạn ở miền Bắc ăn uống tự nhiên, chúng tôi cũng mạnh bạo ăn và lấy đem về để vừa ăn vừa cho các bạn. Riêng tôi có cháu nhỏ thì lấy về cho cháu và bảo đấy là quà của ông ngoại (tôi bảo các cháu gọi Bác Hồ là Ông ngoại). Các cháu được ăn nhiều lần như vậy nên mỗi khi tôi đi biểu diễn lại hỏi: “Hôm nay má có đến Ông ngoại không?”. Thấy tôi trả lời có đến thì các cháu vui hẳn lên, có đứa lại giục tôi đi nhanh hơn nữa. Cũng có lần đi biểu diễn nơi khác, tôi bảo hôm nay tôi không đến Ông ngoại thì các cháu tỏ vẻ không vui. Thấy thế nên các lần đi biểu diễn ở nơi khác, tôi thường nói dối các cháu là tôi đến Ông ngoại, lúc về bao giờ tôi cũng nhớ mua cho các cháu ít bánh kẹo và nói là quà của Ông ngoại gửi cho. Kể ra tôi nói dối như vậy là có khuyết điểm đối với Bác nhưng vì tôi thấy các cháu nhỏ người Tây Nguyên (tập kết ra Bắc) lại được săn sóc chu đáo thế.
Lần thứ hai tôi được gặp Bác là trong dịp chúng tôi biểu diễn để chào mừng một vị khách ngoại quốc đến thăm nước ta. Buổi biểu diễn này có nhiều đoàn văn công tham dự. Khi đoàn chúng tôi lên biểu diễn, tôi thất Bác rất chăm chú theo dõi, thỉnh thoảng lại nói chuyện với vị khách ngoại quốc ngồi bên cạnh và chỉ tay lên phía chúng tôi. Tôi đoán là Bác đang giới thiệu nghệ thuật của các dân tộc Tây Nguyên với vị khách đó.
Sau khi biểu diễn, Bác cho chúng tôi chụp ảnh chung để kỷ niệm. Anh chị em cứ sán đến để được đứng cạnh Bác. Chụp ảnh xong, Bác hỏi tôi:
- Sao độ này cháu Vin gầy thế, cháu Kim Nhớ đi đâu sao hôm nay không có mặt? Chẳng đợi tôi kịp trả lời, Bác ân cần khuyên: - Cháu cần ăn nhiều vào cho có sức khỏe mới được.
Tôi thưa với Bác là Kim Nhớ đi học. Bác hỏi:
- Học gì?
Tôi thưa tiếp:
- Thưa Bác, học văn hóa.
Thấy vậy Bác liền bảo chúng tôi:
- Các cháu cần phải cố gắng học tập, để sau này về Tây Nguyên hướng dẫn lại nhân dân.
Câu chuyện trên đây làm cho tôi suy nghĩ rất nhiều. Bác tài nhớ quá. Mới gặp chúng tôi lần thứ hai mà Bác đã thuộc tên từng người, biết rõ cả ai vắng mặt và hiểu rõ cả sức khỏe của chúng tôi nữa. Chính do lòng thương yêu cán bộ mà Bác quan tâm đến chúng tôi như thế đấy.
Như được lòng thương và sự dạy dỗ của Bác, tôi đã có một sự tiến bộ đáng kể về trình độ văn hóa, tư tưởng và chuyên môn.
Lúc ra tập kết, tôi mới thoát nạn mù chữ và chưa nói sõi tiếng phổ thông. Nay tôi đã có trình độ văn hóa lớp tám và nói thạo tiếng phổ thông.
Về phương diện chuyên môn thì mặc dầu tôi đã công tác trong đoàn văn công được bảy tám năm nhưng lúc ra tập kết, tôi vẫn gần như mù nhạc, chỉ mới đọc được các nốt nhạc, chứ chưa hiểu được nhạc lý và chưa biết xướng âm. Bây giờ tôi đã tốt nghiệp Trung cấp Âm nhạc và đang tiếp tục học thêm. Tôi đã thấy yêu nghề và thích hát những bài hát tiếng dân tộc. Trước kia, tôi rất ghét nghề văn công, cho rằng công tác này không có tiền đồ. Chính vì có ý nghĩ đó nên hồi ở trong Nam, hễ có ai hỏi tôi: “Tối nay diễn gì đấy” là tôi khó chịu, cho là người ta khinh thường, muốn biết tối nay mình diễn “trò” gì. Gặp trường hợp có người hỏi thế là tôi trả lời miễn cưỡng: “Chưa rõ lắm” hoặc làm thinh không nói gì. Cũng không phải chỉ mình tôi coi thường nghệ thuật sân khấu mà cả chồng tôi cũng rứa. Cho nên lúc mới ra tập kết, tôi vẫn chưa yên tâm, luôn luôn xin đổi công tác. Không những thế, tôi lại không thích hát những bài tiếng dân tộc, vì cho là trình độ văn nghệ của dân tộc mình còn thấp kém. Tôi chỉ thích hát những bài tiếng phổ thông, mặc dầu khi hát lên, có nhiều đoạn hay toàn bài tôi không hiểu ý nghĩa hoặc chỉ hiểu lơ mơ. Bây giờ thì khác hẳn trước, tôi đã yên tâm với nghề nghiệp. Tôi đã hiểu biết được những cái hay cái đẹp của nền nghệ thuật dân tộc tôi. Bây giờ khi hát các bài tiếng dân tộc, tôi tự thấy trình diễn hay hơn các bài hát phổ thông, vì tôi hiểu được ý nghĩa và tình cảm của các bài đó.
Sở dĩ tư tưởng tôi biến chuyển tốt như thế là nhờ sự dạy dỗ của Đảng và của Bác. Tôi thấy Bác rất chăm chú theo dõi các tiết mục văn nghệ của các dân tộc thiểu số, trong đó có các dân tộc Tây Nguyên chúng tôi. Có lần Bác gửi cho chúng tôi một bó lông công để dùng trang trí mũ mãng theo phong cách dân tộc. Nhận được bó lông công đó, chúng tôi cảm thấy không những Bác am hiểu phong tục, nghệ thuật của các dân tộc Tây Nguyên mà còn tỏ ra rất trân trọng nữa. Bó lông công đó cũng nói lên một phần Bác khuyến khích chúng tôi trau dồi thêm nghệ thuật dân tộc. Chúng tôi luôn nhớ lời Bác đã căn dặn: “Cần phải cố gắng học tập để sau này về Tây Nguyên hướng dẫn lại nhân dân”.
Bông hồng của Bác, Nxb Phụ nữ, HN, 1985, tr172-177
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)
Bác dạy chúng tôi cất cao tiếng hát
… Chiều 18-5-1969, chúng tôi đang học tập tài liệu Đạo đức cách mạngdo Bác Hồ viết để thiết thực kỷ niệm lần thứ 79 Ngày sinh của Bác thì được lệnh vào gặp Bác. Tin đến đột ngột quá, chúng tôi ai cũng bàng hoàng. Được biết sẽ gặp Bác, được biểu diễn văn nghệ để Bác xem và mừng thọ Bác 79 tuổi, chúng tôi sung sướng quá, vinh dự quá. Vì quá phấn khởi, khi vào nhà Bác, mới trông thấy Bác, chúng tôi chạy ùa tới như đàn cháu nhỏ lâu ngày được gặp ông:
- Chúng cháu chào Bác ạ! Nhân Ngày sinh của Bác, chúng cháu xin kính chúc Bác mạnh khoẻ sống lâu!
Bác đặt cuốn sách dày và chiếc kính lão xuống bàn, cười rất hiền hậu, giọng Bác ấm áp: Chào các cháu!
Được Bác cho phép, chúng tôi ngồi xuống ghế. Bác hỏi tên tuổi, quê quán, trình độ văn hoá, ngày nhập ngũ... từng người một trong đoàn. Bác chỉ chị Mai Tư: Còn cháu?
Nghe Mai Tư báo cáo tên tuổi, quê quán… biết Mai Tư quê ở Đô Lương, Bác cười: A, trai Cát Ngạn, gái Đô Lương...
Bác hỏi chuyện tới đâu, chúng tôi lễ phép trả lời tới đó. Chúng tôi rưng rưng cảm động. Bác bận việc nước việc dân mà vẫn dành thì giờ chăm sóc chúng tôi. Tôi thay mặt chị em thưa với Bác: Chúng cháu xin phép được hát để Bác nghe một số bài theo điệu dân ca miền Trung ạ.
Bác vui vẻ gật đầu, chăm chú nghe từng người hát. Khi nghe tôi hát ví đò đưa:“Ai biết nước sông Lam răng là trong, là đục, thì biết cuộc đời răng là nhục, là vinh...”.
Bác cười: Ở Nghệ An, người ta gọi là“nác”chứ không phải là“nước”.
Bác bảo chú Kỳ gọi các đồng chí làm việc gần đó cùng đến nghe.
Chúng tôi tiếp tục hát. Chị Nồng hát điệu “Ru con”, chị Lý hò khoan, sau mỗi câu hò có đệm. Tôi và Mai Tư không biết cách hò nên ngồi im. Bác bảo: Các cháu không hò khoan theo à?
Đến lượt Mai Tư hát dặm đò đưa:“Nước sông Lam biết khi mô cho cạn, cũng như tinh thần cách mạng của dân. Dù cho bão nổi mưa sa, Nghệ An Xôviết xứng là Nghệ An”.
Bác hỏi mấy đồng chí ngồi xung quanh: Có hay không các chú?
- Thưa Bác hay ạ!
- Mai Tư hát tiếp một câu ví ngắn:
“Vững tay lái chiếc ca nô
Đưa phà đến bến chuyến mô cũng an toàn.
Đã trăm lần bom đạn
Vẫn vững chí kiên gan...”.
Mai Tư hát nhanh, dồn dập. Bác quay sang hỏi chú Kỳ: Chú có hiểu không?
Chú Kỳ người Bắc nghe không hết được. Bác lại hỏi Mai Tư: Trong ta chừ có dệt vải nữa không? - Dạ thưa Bác, có ạ!
- Có phường vải không?
- Dạ, không làm phường như trước, bà con đã vào hợp tác xã làm ăn tập thể cả.
- Rứa cháu có biết hát phường vải không? - Dạ thưa Bác, có ạ.
Bác bảo Mai Tư hát một câu mà các cụ ngày xưa thường hay hát.
Mai Tư thưa với Bác: Dạ, cháu biết hát phường vải nhưng không biết lời cũ ạ.
Bác bảo: Thì cháu lấy câu ni để hát nhá:“Khuyên ai chớ lấy học trò...”,cháu tiếp đi!
- Dạ, thưa Bác, có phải “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”không ạ!
- Giờ cháu tiếp tục câu thứ hai đi!
Mai Tư lúng túng không biết. Bác nhắc:
“Lưng dài có võng đòn cong
Áo dài đã có lụa hồng vua ban”.
Mai Tư hát câu Bác vừa nhắc theo điệu ví Nghệ An nhưng nhớ sai đòn cong thànhvòng tôm.
Bác cười: Đòn cong chớ!
Mai Tư hát xong thì Tuấn Mỹ “lẩy Kiều” được Bác khen. Mỹ hát thêm mấy câu thơ của chú Tố Hữu theo điệu ví ngắn:
“Mình về với Bác đường xuôi,
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người...”.
Đến lượt tôi, tôi đứng dậy thưa: Thưa Bác, bây giờ cháu xin hát điệu ru em, dân ca miền Trung theo lời cũ ạ. Tôi cất giọng:
“À ờ ơ... Ru em em ngủ cho muồi”
Bác sửa lại:
“Ru tam tam théc cho muồi...”
(“tam” là tiếng miền Trung dùng để chỉ “em”; “théc” là “ngủ”).
Tôi hát lại:“Ru tam tam théc cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu...”
Bác lại sửa: Để mạ chứ không phải đểmẹ
Tôi sung sướng hát tiếp:
“... Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau chợ Sải, mua trầu chợ Dinh”.
Bác cười, ân cần sửa nối: Mua cauCam Phổchứ không phảichợ Sải.
Chao ôi! Bác nhiều tuổi rồi, Bác đã từng đi khắp năm châu bốn biển, Bác biết nhiều thứ tiếng, am hiểu nhiều phong tục tập quán các nơi, thế mà Bác vẫn nhớ rất lâu từng tên đất, tên người, cả tiếng hát quê nhà. Tôi lại hát dân ca miền Nam theo điệu Ru con cho Bác nghe nữa. Tôi chọn bài thơRu concủa chú Tố Hữu:
“Con ong làm mật yêu hoa
Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời...”.
Bác ngồi nghe say sưa, dáng tư lự. Tôi thầm đoán: “Chắc Bác đang nghĩ về miền Nam đó”.
Trời tối rồi. Sao đêm tháng năm mọc chi chít. Tiếng hát chúng tôi vẫn ngân vang. Nhưng đội chiếu bóng đã chuẩn bị xong, Bác cho phép chúng tôi ra xem chiếu bóng với Bác. Trước khi kết thúc, Bác hỏi chúng tôi: Các cháu có đi phục vụ chiến trường không?
- Dạ, thưa Bác, chúng cháu có đi Cồn Cỏ và một số chiến trường xa ạ!
Nghe chúng tôi báo cáo, Bác rất vui. Sau đó, Bác nói: Bây giờ Bác thưởng cho mỗi cháu ba chiếc kẹo.
Bác tự tay chọn phát cho mỗi chúng tôi ba chiếc kẹo. Số kẹo còn lại, Bác trao cả cho Tuấn Mỹ: Cháu ni nhỏ nhất, Bác cho cả đĩa!
Chúng tôi còn được xem chiếu bóng với Bác hơn một giờ nữa. Nhưng khi ra về, mọi người vẫn cảm thấy sao thời gian trôi qua nhanh quá, cứ bồi hồi lưu luyến mãi, không muốn rời Bác. Trên đường về, chúng tôi nói với nhau: “Hôm nay chúng mình được vào gặp Bác để hát cho Bác nghe, nhưng chính Bác lại dạy chúng mình hát”. Chúng tôi nguyện sẽ mãi mãi mang lời ca tiếng hát mà Bác đã dạy chúng tôi đi khắp các chiến trường, các đơn vị để phục vụ cán bộ và chiến sĩ góp phần đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược...
Trích theo sáchBác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb.Văn học, Hà Nội, 1995
Bác Hồ thăm đồng ruộng Kiều Mai
Buổi sang, ngày 7-8-1955 (tức ngày 20-6 âm lịch), bà con nông dân Kiều Mai đang sôi nổi thi đua đào vét mương lấy nước sông Nhuệ dẫn vào đồng. Những lá cờ đỏ sao vàng được cắm trên gò cao cạnh Cầu Diễn bên đường 11A. Mọi người đang tấp nập làm việc, người xắn đất, người bốc đất chuyền tay nhau, mồ hôi lấm tấm trên trán, thấm qua áo nhưng ai cũng vui vẻ, khẩn trương làm việc. Trên đường quốc lộ, một chiếc xe ô tô chạy từ Sơn Tây về Hà Nội. Xe dừng bánh gần chỗ mọi người đang đào vét mương, cửa xe vừa mở Bác từ trên xe bước xuống.
- Bác… Bác Hồ!... Mọi người đều nhận ngay ra Bác. Dáng người hơi cao, vầng trán rộng, đôi mắt sáng, chòm râu dài, Bác mặc bộ quần áo kaki bạc mầu, chân đi dép cao su bước nhanh nhẹn tới chỗ mọi người. Bác đến bất ngờ quá, ai cũng muốn reo lên, tất cả đều dừng tay và nhìn về phía Bác, đồng thanh chào Bác. Ai cũng hồi hộp xúc động, cứ đứng im chăm chú nhìn Bác không nói nên lời. Bác chào mọi người rồi tiến lại gần chỗ anh Trần Văn Đăng và hỏi: Thiếu nước phải đi đào vét mương vất vả, các cô, các chú có thắc mắc gì không?Mọi người cùng trả lời: Thưa Bác, chúng cháu rất phấn khởi, không thắc mắc gì ạ! Bác khen thế là tốt. Bác hỏi anh Đăng: Trong số bà con đi đào mương ở đây có ai bị bắt buộc phải đi làm không? Thưa Bác không có ai bị bắt buộc ạ! Vì nắng hạn kéo dài mọi người đều tự thấy phải chung sức đào mương đưa nước lên đồng cày cấy cho kịp thời vụ. Bác khen nông dân Kiều Mai tích cực đào mương, Bác căn dặn mọi người phải chủ động lấy nước cầy cấy, không chờ đợi trời mưa, có thế sản xuất mới thắng lợi được. Bác kể chuyện những nơi chống hạn tốt cho mọi người, rồi Bác nói tiếp, đại ý: Đồng ruộng của ta mầu mỡ nhưng còn nhiều nơi chưa cấy được hai vụ vì ta làm thủy lợi chưa giỏi. Các cô, các chú cố gắng đào đắp nhiều mương máng hơn nữa để biến số ruộng một vụ thành hai vụ, thu hoạch được nhiều thóc, đời sống sẽ ấm no hơn. Xưa không có ruộng dân ta chịu khổ, bây giờ làm chủ ruộng đồng lẽ nào đời sống của ta lại không khấm khá hơn trước.
Lắng nghe lời nói chân tình, giản dị của Bác ai cũng xúc động, thấm thía sự quan tâm sâu sắc của Đảng, của Bác, ai cũng muốn đồng thanh thưa với Bác: Chúng cháu sẽ quyết tâm làm được những lời chỉ bảo của Bác. Thấy chân Bác dính nhiều bùn, cụ Vũ Thị Năng mang một chậu nước lên để Bác rửa chân, Bác ngăn lại và thân mật nói với cụ Năng: Tôi còn khoẻ hơn cụ, để tôi tự đi rửa lấy. Nói xong Bác đi xuống sông Nhuệ rửa sạch chân tay, mọi người theo Bác ra bờ sông, Bác bảo tất cả mọi người:
- Nếu các cô, các chú sản xuất tốt hơn nữa thì Bác lại về thăm.
Xe của Bác đã đi xa, mọi người vẫn đứng bên đường nhìn theo, lưu luyến, cảm động, ai cũng muốn được gần Bác hơn nữa để được nghe những lời chỉ bảo của Người, từng lời nói, cử chỉ của Bác rất gần gũi, thân thiết còn khắc sâu trong tâm trí mọi người.
TinBác Hồ về thăm lan nhanh khắp xóm làng, mọi người kể cho nhau nghe những lời chỉ bảo của Bác và cùng nhau bàn bạc kế hoạch đào đắp mương máng, cải tạo đồng ruộng, hăng hái lao động sản xuất. Những năm sau đó Kiều Mai đi vào sản xuất tập thể, cùng nhau chung sức, chung lòng phát triển sản xuất. Mọi người mong chờ có ngày Bác lại về thăm.
Nhớ Bác
Chị Ái Liên kể: Dạo đó là đầu năm 1955, tôi và cháu Ái Loan đang công tác ở đoàn văn công Liên khu Bốn. Tối đó, Đoàn được vào Phủ Chủ tịch diễn vở cải lươngLương Sơn Bá - Chúc Anh Đàiđể Bác và khách xem. Được vào diễn ở Phủ Chủ tịch, được gặp Bác Hồ, anh chị em trong đoàn chúng tôi vui mừng, sung sướng lắm. Lệ thường, tối biểu diễn, thì quá chiều anh chị em mới đến đoàn chuẩn bị đi diễn. Nhưng hôm đó chúng tôi sắm nắm tập trung từ sáng sớm. Ai cũng kiểm tra, ôn luyện lại phần công việc của mình mà vẫn cảm thấy còn chưa đầy đủ. Sáu giờ chiều, ô tô đến đón. Trong Phủ Chủ tịch, sân khấu đã chuẩn bị xong. Tối đó tôi đóng vai Lương Sơn Bá, còn cháu Ái Loan đóng vai Ngân Tâm, cô hầu gái giả trai của tiểu thư họ Chúc…
Buổi tối đó, Bác Hồ ngồi ở hàng ghế thứ hai, chăm chú xem biểu diễn. Ở màn đầu, sự gặp gỡ thú vị của Sơn Bá - Anh Đài làm Bác cười rất vui. Giờ nghỉ giữa buổi biểu diễn, anh chị em diễn viên khẩn trương chuẩn bị cho màn tiếp thì bất ngờ có tiếng ai reo to: “Bác Hồ!”. Tất cả đều quay nhìn ra. Bác đã đến bên mọi người trong căn lều dựng làm hậu trường trên bãi cỏ.
Nói sao hết được nỗi mừng vui khi đó. Có anh diễn viên đang hoá trang lại, cứ đứng ngẩn người ra, miếng bông vẫn cầm trên tay. Mấy cô diễn viên thì chạy xô lại vây lấy Bác. Ái Loan nhanh chân nhất. Ái Loan cứ quấn lấy Bác, giữ chặt một bên tay Bác, miệng líu ríu mà không biết nói gì. Bác cười, gỡ tay Ái Loan ra, bảo với mọi người: Bác vào thăm, động viên các cháu diễn tiếp cho thật hay nữa… Diễn hay, lát nữa hết vở Bác có kẹo, Bác cháu ta cùng liên hoan đấy…
Mọi người lại reo hò quanh Bác.
Lúc đó, tôi đang dở chút việc ngoài sân khấu. Nghe tiếng reo hò vội chạy vào. Tôi vừa xuống bậc thang vào hậu trường thì gặp Bác đi lên. Gặp Bác bất ngờ quá, tôi cứ đứng sững người, không nói được câu nào. Bác Hồ cười, Bác bỗng vòng tay, cúi mình cất tiếng chào làm tôi giật mình như chợt tỉnh: “Xin kính chào hiền đệ!”. Đó là câu chào, cử chỉ của Lương Sơn Bá khi gặp Chúc Anh Đài mà tôi diễn ở màn đầu.
Vở diễn hết, màn kéo lên, anh chị em ra chào khán giả. Bác Hồ đứng dậy vỗ tay rồi nhanh nhẹn đi lên sân khấu. Được Bác hỏi, mọi người vui sướng quá, cứ hò reo tranh nhau trả lời, Bác bỗng giơ tay, bảo: Các cô chú, các cháu diễn hay rồi… Bây giờ các cô chú, các cháu có muốn biết ý kiến của Bác về vở diễn không?
- Có ạ!
Mọi người nhất loạt trả lời. Ai nấy vội nín lặng chờ nghe ý kiến nhận xét của Bác. Bác đi lại mấy bước, rồi Bác cất tiếng đọc rõ từng câu, từng tiếng:
“Một đôi Sơn Bá - Anh Đài
Chữ tình đáng trọng, chữ tài đáng thương”.
(Bác dừng lại chỉ tay vào chị Hồng Liên là người đóng vai Chúc công, bố Chúc Anh Đài).
Làm cho đôi lứa uyên ương không thành…
Bác ngừng đọc, đi đi lại lại, rồi Bác cất cao tiếng hơn, một tay Bác nắm chặt giơ lên, nghiêm nghị nói tiếp:
Đánh cho phong kiến tan tành
Cho bao nhiêu Anh Đài - Sơn Bá sẽ được thành lứa đôi…
Những câu thơ đó chúng tôi chỉ được nghe có một lần giữa lúc tâm trạng vui sướng rộn ràng như vậy, thế mà mọi người đều nhớ ngay, thuộc ngay… Đối với riêng tôi, hơn mười lăm năm qua rồi, mà tôi tưởng như vẫn đang nhìn thấy Bác khi đó, đang nghe tiếng Bác sang sảng bên tai. Bởi vì qua mấy câu thơ đọc ngay buổi đó, Bác đã dạy chúng tôi rất nhiều về nghề nghiệp, về cách xử lý đúng nhất đối với một vở diễn. Trước đây khi dựng, khi diễn vở Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, chúng tôi đi sâu nhiều vào hoàn cảnh éo le của đôi trai gái để gây lòng thương xót, cảm thông của người xem, qua đó tố cáo chế độ phong kiến dã man, độc ác, bóp nghẹt quyền sống của con người. Bây giờ Bác dạy chúng tôi phải nâng cao ý nghĩa đó hơn - phải hành động. Phải“Đánh cho phong kiến tan tành…!”.
Chúng tôi cùng nhau suy nghĩ, trao đổi lời Bác. Những buổi diễn sau, vẫn những lời hát, cử chỉ, điệu múa đó, nhưng chúng tôi diễn mạnh hơn, sôi sục hơn, quyết liệt hơn…, do đó, sức tố cáo và tác động đến người xem cũng sâu sắc, mãnh liệt hơn…
Từ ngày hòa bình lập lại (1954), chị Ái Liên và các cháu Ái Xuân, Ái Vân nhiều lần được vinh dự vào biểu diễn để Bác xem, vào thăm Bác… nhớ lại thấy Bác Hồ vẫn không khác gì hình ảnh “anh Ba” như trong câu chuyện người dượng kể với gia đình…
Lược trích theo sáchNgười là Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995
Quê hương năm tấn đón Bác
Nhận được tin quê hương năm tấn chuẩn bị đón Bác về thăm, ai nấy phấn khởi khác thường. Anh Đông và tôi được đi đón Bác, lòng tôi lại càng rộn ràng, phần vì vinh dự, phần lo trách nhiệm.
Tối hôm đó, dưới ánh đèn dầu, chúng tôi ngồi quây quần nghe Bác kể chuyện. Sau đó, các đồng chí thường vụ báo cáo với Bác về tình hình địa phương. Bác hỏi tỉ mỉ về sản xuất, đời sống, việc học hành... Bác hỏi tôi:
- Thế cô phụ trách công việc gì?
- Thưa Bác, cháu phụ trách công tác tài chính, thương nghiệp ạ.
- Cô có lo thiếu hàng phân phối cho dân không?
- Thưa Bác, cháu cũng thấy khó lắm ạ.
- Đừng sợ không có hàng, cốt sao phân phối công bằng, hợp lý, hàng ít mà phân phối tốt sẽ bảo đảm đoàn kết tốt.
Bác hỏi tiếp:
- Ở đây, có bao nhiêu phụ nữ tham gia công việc chính quyền?
Tôi không nhớ rõ con số, đành báo cáo chung chung:
- Thưa Bác có nhiều, hầu hết các xã đều có, có một số chị làm chủ tịch, và nhiều chị làm phó chủ tịch.
Bác lại hỏi:
- Ở đây còn tệ đánh vợ, có đúng không?
Tôi đang phân vân thì anh Đông đã thưa:
- Thưa Bác, vẫn còn ạ!
Đến đây, Bác nói, giọng nghiêm nghị hẳn:
- Đánh vợ là tệ rất xấu, chúng ta làm cách mạng để tranh lấy bình quyền, bình đẳng, gái trai ngang quyền với nhau. Lênin đã nói "Phụ nữ là một nửa xã hội. Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì xã hội chưa được giải phóng". Bản thân phụ nữ phải tự mình phấn đấu để giữ gìn quyền bình đẳng với đàn ông. Đàn ông phải quý trọng phụ nữ. Có người còn đánh chửi vợ, đó là một điều đáng xấu hổ. Như thế còn gì là tình nghĩa vợ chồng. Như thế là phạm pháp, là dã man. Việc này Hiến pháp đã quy định. Đảng phải nghiêm khắc.
Tôi nghe Bác nói xúc động quá và thấy mình còn có nhiều thiếu sót.
Hôm sau, chúng tôi mời Bác tới đình Phương Cáp, xã Hiệp Hòa, là nơi cán bộ đang tập trung đón Bác. Bác bắt đầu nói chuyện với mọi người, đại ý:
Hiện nay, nhiệm vụ quan trọng nhất của toàn Đảng và toàn dân ta là sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Các chiến sĩ ở mặt trận phải có đủ vũ khí, phải nắm vững chiến thuật để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trên mặt trận sản xuất, cán bộ và xã viên phải nắm vững kỹ thuật canh tác để thâm canh.
Muốn làm tốt những công việc sản xuất thì phải tổ chức và phân bố sức lao động cho tốt. Sau này, kháng chiến thắng lợi, chúng ta sẽ có nhiều máy móc để thay thế sức người và sức trâu bò. Nhưng bây giờ chúng ta còn cần nhiều sức trâu, bò. "Con trâu là đầu cơ nghiệp". Cần chăm sóc trâu, bò, không được để trâu, bò đói rét. Muốn sử dụng tốt sức người vào công việc sản xuất, thì cần ra sức cải tiến công cụ. Một người gánh khỏe chỉ gánh được 40 cân, nhưng một người kéo một cái xe thì có thể chở được hơn một tạ, tức là gấp mấy lần gánh.
Sức người có nhiều loại: Có thanh niên, có phụ nữ, có người trẻ, có người già. Phải phân công cho hợp lý, người khỏe thì làm việc nặng, người yếu thì làm việc nhẹ. Phải đặc biệt chú ý đến sức lao động phụ nữ. Phụ nữ là đội quân lao động rất đông. Phải giữ gìn sức khỏe cho phụ nữ để chị em tham gia sản xuất được tốt.
Các hợp tác xã phải có những tổ giữ trẻ tốt, bảo đảm cho phụ nữ có con mọn có chỗ gửi con để yên tâm lao động. Một điều Bác nhấn mạnh nữa là phải quý trọng phụ nữ. Bác hỏi Thái Bình còn có người đánh vợ nữa không và ai đánh vợ thì dũng cảm giơ tay lên. Cả hội trường nhìn nhau im lặng, có đồng chí nói rụt rè là chỉ kỳ kèo với vợ chứ không dám đánh.
Bác lại chỉ một đồng chí nữ ngồi gần đó và hỏi có bị chồng đánh không. Chị trả lời:
- Thưa Bác, chồng cháu cũng là cán bộ nên không đánh vợ ạ.
- Có đúng không? Bác nghe nói rằng đánh vợ công khai sợ bị phê bình cho nên có đánh thì chỉ đánh lén thôi. Còn các cô có khi bị chồng đánh nhưng không dám nói. Đánh vợ là tệ rất xấu. Chi bộ Đảng phải giáo dục đảng viên, nhân dân về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng. Đoàn thể phụ nữ và thanh niên phải bảo ban nhau cách cư xử hòa thuận trong gia đình. Bác mong rằng: Từ nay về sau sẽ trừ bỏ thói xấu đánh chửi vợ, các cô các chú có làm được không?
Cả hội trường đáp lại “Được ạ” và vỗ tay giòn giã.
Nghe Bác nói về phụ nữ, tôi thấy nghẹn ngào. Chăm lo đời sống chung của nhân dân, Bác quan tâm rất nhiều đến phụ nữ. Bác đã thấu rõ phụ nữ là những người bị áp bức nhiều, bị đau khổ nhiều dưới chế độ cũ. Ngày nay, phụ nữ đã được giải phóng thì phải tẩy rửa cho hết những tàn dư của xã hội phong kiến, thực dân vẫn coi thường, khinh rẻ phụ nữ. Tôi đinh ninh trong lòng phải ghi nhớ lời Bác và phải cùng chị em phấn đấu thực hiện lời dạy bảo của Bác.
Bác ra khỏi hội trường, chúng tôi xúm xít quanh Bác, được chụp ảnh chung với Bác. Bác ra về trên đường làng, dừng chân thăm bà con thôn xóm, âu yếm xoa đầu các cháu nhỏ. Đường làng mỗi lúc một đông, có người đương làm đồng được tin, vội chạy lên đón Bác. Tới đầu xóm Dân Chủ, một toán thiếu niên, nhi đồng tiến lại gần và đồng thanh: Chúng cháu chào Bác ạ!
Bác tươi cười hỏi:
- Các cháu có ngoan không?
- Thưa Bác, có ạ.
- Có chăm học không?
- Thưa, có ạ.
- Có vâng lời bố mẹ không?
- Thưa, có ạ!
- Chìa tay cho Bác xem nào.
Bác gật đầu tỏ ý bằng lòng vì thấy những bàn tay xinh xắn, nhỏ nhắn của các cháu sạch sẽ. Bác gọi một đồng chí lấy kẹo chia cho các cháu.
Bác xoa đầu mấy cháu:
- Các cháu thích bài gì?
- Dạ, bài “Giải phóng miền Nam” ạ.
- Các cháu hát cho Bác nghe.
Bác đưa tay bắt nhịp, các cháu hát vang. Đồng bào đứng xung quanh nhìn Bác, nhìn con em mình, nét mặt vui tươi hớn hở. Có người rưng rưng nước mắt vì sung sướng và cảm động. Bác đi, mọi người lưu luyến tiễn Bác, hàng cây xanh cũng như vẫy chào Bác.
Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Ý nghĩa thiêng liêng của món quà Bác tặng
Sau Cách mạng Tháng Tám, tôi nhận nhiệm vụ làm liên lạc ở huyện. Lúc bất giờ, một chữ tôi cũng không có. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Chiến sự lan đến quê tôi. Địch đóng 970 đồn bốt lớn nhỏ. Công việc giao thông ở vùng sau lưng địch rất khó khăn và nguy hiểm. Sau sáu năm công tác và học tập, tôi được cử đi dự cuộc liên hoan Anh hùng, Chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ nhất. Trong Đại hội, số đại biểu phụ nữ chúng tôi chưa nhiều. Bác càng quan tâm đối với những chị em là Anh hùng, Chiến sỹ thi đua. Trong buổi thứ ba, sau bản báo cáo của anh hùng Nguyễn Quốc Trị và Nguyễn Thị Chiên thì đến lượt tôi. Bước lên bục nói chuyện, chân tôi run run. Tôi quay lại nhìn Bác, Bác nhìn tôi mỉm cười khuyến khích. Tôi cảm thấy Bác nhủ tôi: Cháu cứ nói, nghĩ thế nào nói ra thế ấy. Đây là anh chị em trong một gia đình công nông binh cả mà.
Thế là tôi bình tĩnh lại. Tôi kể lại đời mình, mạnh bạo dần. Mấy trăm con mắt nhìn vào tôi, không làm cho tôi bối rối nữa. Những ánh mắt yêu thương như nhắc nhở tôi ôn nghèo, kể khổ. Tôi lăn lộn nhiều, vất vả nhiều nhưng ít khi thôi nghĩ lại, ôn lại những quãng đời đã qua của mình. Rồi tự nhiên tôi xúc động quá. Tôi thoáng nhớ lại những ngày sống cực nhục trước kia. Nếu không có Bác, không có cách mạng thì cuộc đời tôi vẫn mãi mãi là cuộc đời con cua, con cáy mà thôi. Báo cáo xong, tôi cẩn thận: “Kính thưa Bác, kính thưa các đồng chí trong Đoàn Chủ tịch, kính thưa các Anh hùng, Chiến sỹ thi đua Bắc, Nam, Trung, tôi nói đến đây là hết”. Tôi còn đang bàng hoàng vì những tiếng vỗ tay, thì Bác từ trên ghế Chủ tịch đoàn bước đến gần tôi. Bác cầm tay và nói:
- Cô Chiên là Anh hùng quân đội, Bác tặng khẩu súng lục. Còn cô là chiến sỹ giao thông Bác tặng cái đồng hồ. Cô sẽ dùng nó để đi những đường thư thật đúng hẹn.
Vừa nói, Bác vừa trao đồng hồ tận tay tôi. Là một người trong “đội hỏa tốc”, chuyên chạy những mật thư, những quân lệnh “tuyệt mật” và “thượng khẩn” tôi thường tính giờ theo lối ước lượng, xem sao trên trời, đo bóng cây mặt đất, nghe con chim kêu, con gà gáy, sai chệch thường không ít. Hình như đã có một lần tôi làm liên lạc sai hẹn đến mấy giờ. Rất băn khoăn, tôi ước mong mình có một cái đồng hồ. Mong ước ấy có đã lâu rồi, thế mà giờ đây lại thành sự thật. Tôi khóc vì vui sướng. Tôi là đứa con không cha từ bé. Bác đã làm sống lại tình cha con mà tôi tưởng suốt đời không bao giờ có được nữa. Nhìn Bác, tôi cứ tưởng mình là đứa con gái bé bỏng được người cha nhân từ săn sóc, yêu thương.
Sau Đại hội, một số người được Bác thết cơm. Tôi được ngồi cạnh Bác. Bác hỏi tôi:
- Khi bị địch tra tấn dã man, cô làm thế nào mà chịu được?
- Thưa Bác, cháu trước đây rất khổ. Nay vì Tổ quốc mà chúng đánh đập thì khổ mấy cũng chịu được, đau mấy cũng chịu được.
Bác cười và gắp thêm thức ăn cho vào bát của tôi.
Xong Đại hội, chúng tôi chia tay, mỗi người đi về một ngả. Trước khi đi, người nào cũng quyến luyến. Từ bốn phương trời của đất nước, một ngày về quây quần chung quanh Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác, chúng tôi quen nhau, hiểu nhau. Tôi cảm thấy mình hiểu biết nhiều hơn trước. Đất nước mênh mông, Anh hùng ngành nào cũng có. Giữa chúng tôi có một mối liên hệ mật thiết, vừa mới mẻ, vừa quen thuộc mà Bác Hồ là hạt nhân gắn bó tất cả mọi người với nhau.
Lúc bấy giờ, tôi bắt đầu có thói quen xem giờ. Tiếng đồng hồ tích tắc, lắm lúc tôi tưởng đấy là nhịp đập của trái tim mình. Cùng với chiếc đồng hồ, tôi cứ ngỡ là hơi ấm trong bàn tay Bác còn để lại trên tay tôi và mãi mãi đi với tôi trên mọi nẻo đường công tác. Lần đầu tiên dùng đồng hồ, mà lại là đồng hồ của Bác cho, tôi càng thích ngắm ngía. Mặt đồng hồ tròn vành vạnh như mặt trăng rằm. Chữ số và kim giờ, kim phút có bôi chất gì sáng lên trong bóng tối. Mỗi tiếng tích tắc là một tiếng nói của hiện tại. Cái đồng hồ như xác định chỗ đứng của tôi trên con đường hoạt động căng thẳng. Cái đồng hồ cho tôi biết mình là một bộ phận khăng khít của cả guồng máy kháng chiến. Cứ nhìn vào đồng hồ là tôi bồi hồi cảm động nhớ lại lúc được đứng bên Bác. Trong đêm tối mịt mù, những chấm sáng nho nhỏ quý báu làm sao!
Từ ngày có cái đồng hồ, tôi càng biết quý những ngày, những giờ mình đang sống. Tôi cố học thêm chữ trong những lúc nghỉ ngơi. Những lúc mệt mỏi, định dễ dãi với mình một chút, tôi lại nghe tiếng đồng hồ nhắc nhở cố gắng học và làm.
Tích tắc. Tích tắc. Mỗi tiếng tích tắc là một quãng thời gian đi qua. Với tôi, đó cũng là những âm thanh làm cho sáng tỏ thêm, sâu sắc thêm và sinh động thêm kỷ niệm về Bác.
Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975
Còn nữa
Huyền Trang (tổng hợp)
Mãi mãi không quên (Bích Thuận kể)
Hồ Chí Minh! Cha chúng ta về một ngày thu muôn ánh sao bay rợp thành đô!
Có lẽ chưa một lần nào trong đời, chúng tôi được hát vui, hát với tất cả tâm hồn mình như cái ngày tháng 3-1950 ấy. Chúng tôi được chào đón Bác, Bác tới thăm các đại biểu về dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất.
Những gương mặt xanh xao vì sốt rét, vì những đêm nằm hầm bỗng rạng rỡ hồng hào, những đôi mắt sáng lên, không rời nhìn Bác, những đôi mắt hầu như không chớp. Bác đã đến thật rồi kìa! Nước da Bác rám hồng, vầng trán cao rộng của Bác còn đọng lấm tấm những giọt mồ hôi. Bác vừa vượt qua một chặng đường khá vất vả đến thăm chúng tôi.
Bác đây. Bộ quần áo lụa nhẹ màu nâu chân chất, chòm râu bạc phơ, gương mặt hiền từ, luôn nở nụ cười độ lượng trước những câu hỏi, những lời chào của lớp lớp đàn cháu gái.
Những chị cán bộ lãnh đạo từng trải, những chị cán bộ gan góc vùng sau lưng địch, những chị cán bộ vùng rẻo cao, trong phút giây đều quên hết nghi thức và tất cả bỗng hồn nhiên, bỗng như trẻ thơ trước mặt Bác.
Bác cháu quây quần tụ họp dưới bóng cây xanh mát rượi của rừng nứa, lúc những đốm nắng cuối xuân đang xao động.
Bác thân thiết hỏi thăm các đại biểu về dự Đại hội. Nam Bộ, Khu V, miền xuôi, miền núi, vùng tự do, vùng tạm bị địch chiếm, chúng tôi có cảm giác Bác đã hiểu tất cả. Tấm lòng những người dân vùng sau lưng địch luôn luôn hướng về kháng chiến, lòng dân vùng rẻo cao, sự hy sinh tận tụy của cán bộ từ cơ sở.
Cảnh sum họp dưới cánh rừng nứa buổi chiều hôm ấy thực sự đầm ấm, đầy tình thương yêu thân thiết của đại gia đình cách mạng. Bác nói chuyện với Đại hội, và rồi Bác cho phép các đại biểu được hỏi Bác, về việc gì cũng được, việc công cũng như việc tư.
Nhiều chị đã mạnh dạn hỏi Bác về những điều các chị chưa hiểu: Chuyện công tác, chuyện gia đình. Hội trường nhiều lần vang lên tiếng cười vui vẻ. Câu trả lời của Bác thường giản dị và đôi lúc dí dỏm.
Rồi chúng tôi được chụp ảnh chung với Bác. Cũng chưa bao giờ chị em lại háo hức đòi chụp ảnh đến thế.
Những đốm nắng trong cánh rừng nhạt dần. Bác sắp ra về. Lòng dạ chúng tôi nao lên. Bao giờ mới lại được gặp Bác lần thứ hai nữa? Kìa, Bác đang sửa soạn ra về, rõ ràng, dứt khoát như khi Bác đến. Hội trường sâu lắng một giây. Tất cả đang hướng lên, về phía Bác. Giọng Bác ấm áp:
"Bác chúc các cô ra về mạnh khỏe. Về địa phương, những chị em nào có thành tích, các cô nhớ gửi báo cáo lên cho Bác".
Những lời căn dặn của Bác vang vọng mãi trong tôi. Tôi suy nghĩ mãi "Chị em nào có thành tích, các cô nhớ gửi báo cáo lên cho Bác". Chị du kích đội Trưng Trắc, bà mẹ chiến sĩ Nam phần Bắc Ninh tôi được gặp những ngày theo bộ đội vào vùng sau lưng địch. "Vâng, thưa Bác, cháu sẽ cố gắng".
Những buổi tối mùa Hạ, dưới ánh đèn nhựa trám, tôi cố gắng viết về những trận đánh giặc bằng đòn gánh, bằng mưu trí của những cô gái từng trồng dâu nuôi tằm ở một làng ven sông Đuống. Tôi viết về lòng yêu nước, thương bộ đội của bà mẹ chỉ quen nghề quay tở, dệt cửi.
Mừng sinh nhật Bác 60 tuổi, tôi gửi thư lên, chúc thọ Bác và mạnh dạn gửi lên Bác những trang viết đầu tiên đó.
Tôi có ngờ đâu Bác cũng đọc những mẩu chuyện nhỏ ấy.
Một buổi sáng tháng 6, tôi vừa đi công tác về, các đồng chí trong cơ quan vui mừng báo tin cho tôi biết: "Có thư Bác gửi". Thư của Bác kèm theo một tấm Huy hiệu. Một tấm hình Bác mà đêm đêm ở rừng sâu Việt Bắc, dưới ánh đèn dầu, tôi thường soi vào lòng bàn tay mình để thấy Bác được rõ hơn, để mình tự nhủ mình phải làm việc tốt hơn, như lời Bác dặn trong thư: "Bác khuyên cháu cố gắng để tiến bộ mãi".
Mùa Hè năm 1951, tôi đi theo một đơn vị quân y phục vụ chiến dịch Hà - Nam - Ninh. Tôi đi với các đoàn dân công, đi tới các đội điều trị. Và tôi viết về các chị dân công làm nhiệm vụ tiếp tế, tải thương, về các bà mẹ hết lòng phục vụ thương binh. Từ cuộc cách mạng, cuộc kháng chiến thành công do Bác cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo, đã nảy sinh biết bao người phụ nữ mới. Những người phụ nữ trung thành và tận tụy. Tôi phải viết về họ, và một lần nữa, tôi gửi lên Bác những mẩu chuyện tôi ghi chép trong chiến dịch.
Một buổi sáng mùa Đông, một món qùa bất ngờ nữa đến với tôi. Bác cho gọi tôi đến. Bác cẩn thận dặn đồng chí Thắng trong đơn vị bảo vệ Bác, nhắc tôi ăn sáng và nắm thêm một nắm cơm ăn dọc đường. Nhưng vì quá mừng tôi chỉ ăn qua quít rồi vội theo anh đi ngay.
Bầu trời xanh của núi rừng Việt Bắc mở rộng trước mắt tôi. Ánh sáng mùa Đông hôm ấy sao ấm thế, cánh rừng sao đẹp thế, dòng suối sao trong thế. Chân tôi đi, đi mãi mà không mỏi. Hết cánh rừng này đến cánh rừng khác, hết dốc cao này đến một dốc cao khác. Chúng tôi đi một mạch không nghỉ, không ăn, không uống và đến chiều thì tới nơi Bác ở.
Tim tôi đập mạnh khi tôi bắt đầu được đặt chân lên con đường hàng ngày từng in dấu chân Bác. Con suối lớn trước cửa nơi nhà Bác ở. Và nhà Bác đây rồi. Thoạt tiên là một gian nhà bếp sáng sủa, sạch sẽ. Lên một khúc nữa là gian nhà nơi Bác ăn cơm, và cũng là phòng nghỉ của đơn vị bảo vệ. Cạnh đó là nhà khách.
Tôi nôn nóng được tới chào Bác, Bác đang làm việc. Mười ngón tay của Bác gõ giòn giã trên bàn máy chữ. Một mảng nắng chiều mùa Đông hắt lên vầng trán cao rộng của Bác, lên bộ quần áo nâu giản dị Bác đang mặc.
Tôi chạy vội lại bàn làm việc của Bác, tôi chào Bác mà hai mi mắt cứ nóng ran cả lên. Bác cười, hỏi tôi đi đường có nhớ mang cơm nắm đi ăn không, đi đường xa có mệt không? Tôi đáp "Thưa Bác, được đến thăm Bác, cháu mừng quá nên không mệt, không đói ạ". Tôi nhìn ngắm mãi ngôi nhà Bác ở, một nếp nhà thực giản dị. Giường Bác nằm nghỉ, cái bàn bên cửa sổ nơi Bác làm việc, mọi vật đều trật tự, ngăn nắp. Tôi nhìn và tôi thấy hầu như không có gì xa cách giữa ngôi nhà của một vị Chủ tịch nước và nhà của các cơ quan.
Bác hỏi tôi chuyện gia đình, chuyện công tác. Bác hỏi thăm một vài chị trong cơ quan tôi, đời sống của chúng tôi. Tôi nói với Bác những ngày chúng tôi đi chiến dịch, chuyện các bà mẹ, các chị em phục vụ chiến trường, các chiến sĩ bị thương. Bác nghe và đột nhiên Bác bảo: "Cô viết còn nhạt lắm". Bác gọi các anh ở Văn phòng lên, bảo các anh xếp chỗ nghỉ cho tôi.
Hôm sau, Bác giao cho tôi một việc: Đọc những số báo Bác đưa cho, báo Nhân đạo, báo Vì một nền hòa bình lâu dài, lấy ở trong đó những mẩu chuyện, những tin tức mình đang cần, ví dụ: Mẩu chuyện phản đối chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, tố cáo chế độ tư bản, đế quốc....
Bác lại hỏi tôi về những bài viết của C.B. đăng trong báo Nhân dân. Tôi thưa với Bác về cách viết của C.B. Bác gật đầu. Bác bảo: "Bây giờ cô cũng viết như thế cho Bác xem". Ở Văn phòng Bác, buổi sáng tôi đọc báo đến khoảng 10 giờ. Chiều và tối, cũng đọc báo, đọc những mẩu chuyện đánh máy bằng tiếng Pháp Bác đưa cho, toàn là chuyện đánh Pháp cả. Tôi nhớ nhất là chuyện "Chị Ba vườn chuối". Chị Ba đã chặt hết cây chuối trong vườn nhà để giúp bộ đội vượt sông. Giặc Pháp đến, tra hỏi chị, chị một mực không khai và chị đã hi sinh anh dũng ngay trong vườn chuối nhà chị. Trong thời gian ba ngày, tôi lượm nhặt tin tức và viết được năm bài báo ngắn gửi lên Bác.
Những bài viết của tôi năm ấy được Bác giữ lại, mỗi bài có đính theo bản góp ý chung cho cả bài, lại nêu từng câu, từng ý, câu này viết chưa ổn nên viết thế nào, vì sao phải viết như thế... Những bài báo ấy đến nay tôi vẫn còn nâng niu gìn giữ.
Tháng 5-1961, Bác đến thăm Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quân. Khi Bác ra về, tôi còn đứng trông theo Bác mãi.... Xe Bác đã chuyển bánh, bỗng Bác ra hiệu cho đồng chí lái xe dừng lại. Và Bác vẫy gọi tôi đến. Sung sướng, cảm động, tôi chạy vội tới chào Bác. Bác hỏi tôi về đời sống gia đình, về công tác. Khi biết tôi vẫn viết báo, Bác gật đầu cười vui vẻ.
Mỗi lần tới thăm Đại hội các nhà báo, Bác đều gọi các cháu gái viết báo lên ngồi hàng ghế đầu. Bác kể chuyện những năm Bác làm báo cho chúng tôi nghe.
Bác thường căn dặn chúng tôi phải viết cho hay, cho chân thực, cho sinh động, cho hùng hồn về những con người mới của thời đại ta, chế độ ta. Chúng tôi chưa làm được như Bác mong muốn.
Tình thương của Bác vẫn dẫn dắt chúng tôi vượt qua bao trở ngại mãi mãi tôi không bao giờ quên được.
(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975).
Niềm vinh dự lớn (Nguyễn Thị Khương kể)
Tại Đại hội anh hùng chiến sỹ thi đua toàn miền Bắc năm 1958, tôi được bầu là Anh hùng lao động, được Chính phủ và Quốc hội tặng Huân chương Lao động hạng Nhất và được gặp Bác Hồ. Hôm ấy, Bác đến, cả hội trường rộn lên vui mừng rồi lặng đi trong xúc động. Tôi không biết dùng lời nào để nói hết được tình cảm của tôi lúc ấy.
Thấy Bác hồng hào, khỏe mạnh, tôi mừng lắm. Giờ giải lao, đôi chân tôi như cái máy tự động đi lại chỗ bậc lên xuống, thầm nghĩ cứ đón Bác ở đây thế nào cũng được gặp. Quả nhiên, Bác đang nhẹ nhàng bước xuống gần tôi. Tôi cúi mặt không cho Bác thấy giọt nước mắt sung sướng cứ tự nhiên trào ra. Bác đã nhìn thấy tôi. Tôi nghe rất rõ tiếng Bác gọi: "A! Cô Khương", rồi Bác chìa tay bắt tay tôi và bảo tôi đi ra uống nước. Hai Bác cháu cùng ngồi và ăn chuối, uống nước, Bác hỏi chuyện:
- Cô có khỏe không?
- Dạ thưa Bác, cháu khỏe lắm ạ.
- Cô có mấy cháu rồi? Các cháu có ngoan không?
- Dạ thưa Bác, cháu có một con. Nó rất ngoan ạ.
Bác căn dặn:
- Xã của cô khá lắm. Cô về cố gắng cùng các đồng chí ở xã thúc đẩy phong trào tiến lên, đã tốt rồi thì làm tốt hơn nữa. Các cô, các chú được bầu là Anh hùng, Chiến sĩ rồi phải phát huy vai trò đầu tàu gương mẫu, không được tự kiêu, tự mãn. Nói phải làm và làm phải nói như cô là rất tốt. Nói không làm là nói suông, làm không nói là tự bó mình lại, làm thay quần chúng, không phát huy được vai trò đầu tàu.
Sau Hội nghị, Bác chụp ảnh chung với các Anh hùng, Chiến sĩ. Nhìn thấy tôi, Bác chìa tay vẫy:
- Còn cô Khương nữa, lại gần đây!
Tôi len tới, Bác cho tôi ngồi cạnh Bác. Chụp ảnh xong, Bác cho cả chúng tôi về nơi Bác ở dự buổi họp mặt liên hoan. Bác hỏi tôi:
- Cô ở Hòa Bình về đây dự Hội nghị có vui không? về, cô định thực hiện thế nào?
- Dạ thưa Bác, cháu vui và phấn khởi lắm, lòng dạ sáng ra nhiều, nhiều cái hay cái tốt quá nhưng cháu không tiếp thu được hết, chỉ nhớ những cái địa phương cháu có thể vận dụng được thôi, như: Ngâm giống ba sôi hai lạnh và làm xe giải phóng đôi vai...
Bác gật đầu, cười, nói:
- Cô cứ làm được từng đấy việc là tốt rồi.
Đoàn chúng tôi được sang thăm đất nước Trung Quốc. Trong thời gian ở Trung Quốc, chúng tôi đã được các đồng chí bạn đón tiếp nồng nhiệt và cho đi tham quan mười tỉnh. Tôi đã thất rất nhiều điều mới lạ, bổ ích. Trở về Hà Nội, chúng tôi lại được Bác cho gặp. Bác hỏi:
- Các cô các chú đi tham quan nước bạn có vui thích không? Mắt thấy tai nghe những điều tốt đẹp như thế nào?
Đồng chí Hồng Tiến, Trưởng đoàn đứng lên định báo cáo tình hình, nhưng Bác vẫy tay ra hiệu ngồi xuống.
- Chú thì chú biết rồi, Bác hỏi các cô các chú khác kia. - Nhìn thấy tôi Bác hỏi luôn:
- Cô Khương thấy thế nào, về địa phương có áp dụng được không?
- Dạ thưa Bác, cháu được Đảng, Chính phủ và Bác cho đi thăm nước bạn, lòng cháu vui lắm. Thành tích, kinh nghiệm của nước bạn có nhiều nhưng nhận thức của cháu có hạn.
Bác gật đầu:
- Cháu đi như thế là có kết quả tốt. Thành tích, kinh nghiệm của nước bạn có nhiều, thấy thành tích để ta tin tưởng, thấy kinh nghiệm để ta học tập, vận dụng nhưng không áp dụng máy móc, rập khuân tất cả kinh nghiệm của nước bạn vào hoàn cảnh của ta.
Muốn tiến kịp nước bạn, ta không nóng vội nhưng phải cố gắng nhiều. Các cháu là những người tiên tiến phải nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần tự lực cánh sinh, phát huy vai trò đầu tàu của mình hơn nữa.
Tôi ngồi ngắm nhìn mái tóc bạc phơ của Bác, kẹo bánh trước mắt còn nguyên không ăn cũng thấy ngon rồi. Thấy tôi không ăn, Bác đến gần hỏi:
- Sao cô Khương không ăn bánh kẹo?
- Dạ thưa Bác, cháu vui mừng quá....
Bác nói:
- Cô ăn đi, và có cháu nhỏ, lấy phần về cho cháu. - Bác gói kẹo thân mật đưa cho tôi:
- Cô đem về cho cháu, quà của Bác đấy.
Ra về, tôi chỉ muốn đi nhanh đem gói quà của Bác cho đứa con đầu lòng ở nhà và các cháu khác nữa. Anh em đi cùng thấy tôi có hân hạnh được Bác cho quà, ai cũng vui mừng. Tôi đã chia cho mỗi người vài cái. Chiếc kẹo của Bác đã thành món quà quý nhất đem về quê hương, ai cũng nâng niu, lòng vô cùng sung sướng. Còn một ít, tôi gói kỹ đem về cho con. Thấy tôi đi lâu về, con tôi vừa mừng vừa hờn dỗi, quay mặt đi khóc không cho tôi bế. Tôi nựng cháu: "Mẹ thương, mẹ nhớ con ngoan, con quý. Bác Hồ gửi kẹo cho con đây này!".
Đôi mắt cháu giương lên tròn xoe, vừa nũng nịu, vừa hớn hở vui mừng. Tôi đoán nó vui mừng vì lâu ngày không gặp lại tôi và vui mừng vì được Bác Hồ cho kẹo. Nó ăn một chiếc còn để dành, gặp ai nó cũng khoe "Bác Hồ cho kẹo".
Cho tới nay, tôi đã vinh dự được gặp Bác nhiều lần và mỗi lần gặp Bác, tôi vẫn có cảm tưởng như vừa được gặp Bác lần đầu, bùi ngùi xúc động không nói lên lời.
(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975).
Vinh hạnh lớn lao nhất của đời tôi (Lê Thị Hảo kể)
Là một đứa con của "miền Nam đi trước về sau", tôi có một lần được tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vinh hạnh lớn lao nhất của cả một đời người đã đến với tôi.
Hôm đó một số anh chị em chúng tôi đại diện cho Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình thành phố Huế được vào thăm Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại ngôi nhà đơn sơ của Thủ tướng cách Phủ Chủ tịch không xa.
Thủ tướng tiếp chúng tôi độ 15 phút thì Bác Hồ đến. Bác thật giản dị, nhẹ nhàng và tâm hồn chúng tôi ngập tràn một niềm vui lâng lâng tỏa ngát.
Bác đến! Điều thật lạ là tôi không ngỡ ngàng mà lại cảm thấy ngay một cái gì rất gần gũi, thân thương, rất quen thuộc với ánh mắt và nụ cười đầu tiên của Bác. Bác đã nhìn và đã cười với chúng tôi, những đứa con mới ở xa về, và tâm hồn chúng tôi lung linh ánh sáng như được Bác trao truyền.
Ở Bác tỏa ra một sự tươi tắn, mát mẻ, một niềm vui thường xuyên và một tình thương rộng lớn. Tôi hiểu rằng Bác thương yêu và Bác vui thích gặp những đứa con của miền Nam, nơi luôn luôn ở trong tim của Bác. Tôi lặng nhìn chòm râu bạc, đôi mắt sáng, nụ cười tươi mát đang hấp dẫn tôi đến mức tôi thật sự không còn để ý đến sự có mặt của những người chung quanh.
Bác bắt tay anh chị em chúng tôi rồi vui vẻ chỉ ghế mời chúng tôi ngồi. Bác hồn nhiên, cởi mở, chủ động và gần gũi với tất cả đàn con đang quây quần chung quanh Người. Vào câu chuyện, Bác nói lên một câu nói trang trọng đầy tình nghĩa. Nhìn Thủ tướng Phạm Văn Đồng rồi nhìn sang chúng tôi khắp lượt, Bác nói, giọng chậm rãi, ôn tồn, ấm áp:
- Hôm nay tôi và đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt 20 triệu đồng bào miền Bắc hoan nghênh các cô các chú trong Liên minh ra thăm miền Bắc.
Bác lần lượt hỏi thăm sức khỏe mỗi người chúng tôi. Người hỏi về chuyến đi từ trong vùng giải phóng miền Nam ra đến miền Bắc có an toàn không? Đi bằng phương tiện gì? Đường sá như thế nào? Ăn uống ra làm sao? Bác lại hỏi gia đình của mỗi chúng tôi hiện ở đâu? Có được an toàn không? Sinh sống làm ăn thế nào? Bác hỏi rất tỉ mỉ, rất thân tình. Chúng tôi không dám nói nhiều về bản thân nhưng khi nghe chúng tôi trả lời ngắn, Bác lại hỏi thêm một số chi tiết cho đầy đủ. Thấy tôi đeo kính cận thị Bác hỏi kính nặng mấy điốp. Rõ ràng là Người có sự quan tâm rất mực của một người cha hiền.
Bác hỏi chúng tôi rất kỹ về tình hình vùng giải phóng, vùng đô thị bị tạm chiếm. Nghe kể về Huế, Bác rất chăm chú, thỉnh thoảng Bác gợi lại vài kỷ niệm của thời thơ ấu, nhắc tới những nơi Bác đã từng sống qua: Trường Quốc học, thành nội, chợ Xép, quán Ao Hồ, cầu Tràng Tiền.... Bác hỏi ở Huế có những chén chè nho nhỏ để trên cái trẹt bán mỗi chén một tiền còn hay không? Bác nhắc tới tên vài đường phố cũ ở Huế nà thuở nhỏ Bác đi học ở đây thường qua lại. Trí nhớ của Bác thật dồi dào, Bác hồ hởi nhắc lạo tuổi trẻ của mình bên bờ sông Hương. Giọng Bác thực sự xúc động khi hỏi sông Hương hiện nay còn đẹp không? Đồng bào mình dưới ách Mỹ ngụy khổ đến mức nào? Câu nói dạt dào tình thương vô hạn đối với đồng bào miền Nam và gợi lên trong lòng chúng tôi một nỗi xốn sang căm thù da diết kẻ thù cướp nước và bán nước. Miền Nam! Miền Nam còn chưa giải phóng. Chúng tôi xót xa nghĩ tới miền Nam khi đang được ngồi dưới bầu trời miền Bắc, bên cạnh Cha già, hiện thân vĩ đại của độc lập, tự do.
Bác nói bằng lời văn giản dị, nôm na, ngắn gọn, cô đúc mà chúng tôi thấy thật là mới mẻ, nhẹ nhàng. Ở vùng tạm bị chiếm miền Nam, cả đến ngôn ngữ cũng bị vẩn đục, lai căng pha tạp. Những lời nói của Bác đối với tôi là cả một bài học lớn về tiếng nói, cách nói, cách dùng từ. Ngôn ngữ của Bác giàu hình tượng, sinh động như trong ca dao tục ngữ. Bác dùng chữ, đặt câu rất giản dị và chuẩn xác. Nếu có ai trong chúng tôi dùng chữ chưa được chuẩn, sử dụng từ Hán Việt nặng nề, phức tạp, không cần thiết thì Bác nhẹ nhàng vui vẻ chữa lại cho chúng tôi.
Qua cuộc nói chuyện, Bác đánh giá cao những hy sinh gian khổ, những sự tích anh hùng của đồngbào ta ở hai miền với một tấm lòng ưu ái đặc biệt dành cho miền Nam tiền tuyến đầu sóng ngọn gió. Bác nhắc nhở chúng tôi đức khiêm tốn và ý chí tiếp tục phấn đấu, đừng tự cao, tự mãn, Bác bảo chúng tôi:
- Giỏi thì có giỏi thật đấy nhưng cứ nói gì thì nói chứ đừng vội kết luận rằng dân tộc Việt Nam là nhất thế giới nhé
Mọi người chúng tôi lấy làm vui được nghe Bác truyền cho bài học khiêm tốn, giản dị mà sâu sắc ấy. Ở gần bên Bác, tôi vừa cảm thấy được động viên, cổ vũ khích lệ rất nhiều, đồng thời cũng cảm thấy mình chưa làm được bao nhiêu so với yêu cầu của thực tế và lòng mong muốn của Bác.
Thời gian ở bên cạnh Bác trôi nhanh như một giấc mơ tuyệt đẹp. Ai cũng muốn nó kéo dài mãi mà lại không dám ngồi lâu vì sợ Bác mệt. Đến lúc những đứa con của Bác phải nghĩ đến bảo vệ sức khỏe cho Cha già của mình. Lòng đầy lưu luyến, chúng tôi nhìn nhau với ý định xin Bác cho ra về để Bác nghỉ ngơi.
Bác rất hiểu nỗi lòng chúng tôi lúc này và để tỏ lòng thương yêu của mình, Bác bảo chúng tôi ngồi lại với Bác mười lăm phút nữa. Bác bảo nhỏ vào tai đồng chí cần vụ, vài phút sau đồng chí ấy trở lại với một cái đồng hồ để bàn đã cũ (mà Bác vẫn thường dùng hàng ngày) và một chiếc phong bì lớn. Bác muốn tặng chúng tôi một tấm ảnh lớn để làm kỷ niệm. Trong ảnh, chúng tôi thấy Bác ngồi ở giữa, cười rất tươi, rất hiền, quây quần chung quanh là bảy, tám cháu thiếu nhi miền Nam, có nét mặt ngây thơ nhưng đều là dũng sĩ diệt Mỹ. Tất cả các cháu đều tỏ ra vui sướng được ở gần bên Bác.
Bác Hồ nhìn vào trong ảnh rồi nhìn một chị trong đoàn chúng tôi và nói với một giọng khoan thai đầy xúc động:
- Dân tộc ta đời đời ca ngợi và nhớ ơn những bà mẹ Việt Nam đã sinh ra những anh hùng dũng sĩ như thế này đây.
Chất trữ tình bình dị, hồn hậu mà tha thiết trong những câu nói của Bác làm cho mọi người ứ nước mắt. Bác đã nói lên những chân lý của lịch sử mà cũng là những tình cảm lớn trong lòng chúng tôi.
Bác đã nhắc tới người phụ nữ Việt Nam, nhưng chính bản thân Bác cũng có tấm lòng vĩ đại của người mẹ Việt Nam, suốt đời mình Bác đã hy sinh hạnh phúc gia đình, hạnh phúc cá nhân vì đại nghĩa dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân. Tấm lòng của Bác đối với miền Nam thể hiện qua tình thương của Bác đối với chúng tôi, làm cho tôi cảm thấy nhớ da diết những đồng bào, đồng chí, những người thân còn ở lại trong lòng miền Nam tạm thời bị Mỹ ngụy chiếm đóng. Bác thong thả đứng dậy âu yếm nhìn và chào mọi người rồi chống gậy đi ra. Bác khoan thai từ biệt chúng tôi, đáp lại cái nhìn lưu luyến của chúng tôi bằng một ánh mắt và một nụ cười nâng đỡ, động viên vô cùng ý nhị.
Nghĩ tới Bác, tôi nghĩ tới một vì sao sáng nhất lung linh tỏa ánh giữa bầu trời đầy sao. Vị anh hùng vĩ đại của nhân dân ta đã nhè nhẹ bước vào cõi bất diệt của tự hào dân tộc, nơi mà những vua Hùng, bà Trưng, bà Triệu, những anh hùng Ngô, Lý, Trần, Lê, Quang Trung đã đến trước Người. Cũng trong cõi ấy, chắc Người đã gặp các vĩ nhân của mọi thời đại, những người đã làm nên niềm tự hào của nhân loại.
Bác đã ra đi nhưng tôi đinh ninh Người còn sống mãi, Bác đi vào lòng của hàng triệu triệu người ở đây và khắp nơi.
(Trích từ sách: Bác Hồ với Bình Trị Thiên (tập II), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Ty Văn hóa - Thông tin Bình Thị Thiên, 1978).
Tâm Trang (tổng hợp)
Còn nữa
Mãi mãi không quên (Bích Thuận kể)
Hồ Chí Minh! Cha chúng ta về một ngày thu muôn ánh sao bay rợp thành đô!
Có lẽ chưa một lần nào trong đời, chúng tôi được hát vui, hát với tất cả tâm hồn mình như cái ngày tháng 3-1950 ấy. Chúng tôi được chào đón Bác, Bác tới thăm các đại biểu về dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất.
Những gương mặt xanh xao vì sốt rét, vì những đêm nằm hầm bỗng rạng rỡ hồng hào, những đôi mắt sáng lên, không rời nhìn Bác, những đôi mắt hầu như không chớp. Bác đã đến thật rồi kìa! Nước da Bác rám hồng, vầng trán cao rộng của Bác còn đọng lấm tấm những giọt mồ hôi. Bác vừa vượt qua một chặng đường khá vất vả đến thăm chúng tôi.
Bác đây. Bộ quần áo lụa nhẹ màu nâu chân chất, chòm râu bạc phơ, gương mặt hiền từ, luôn nở nụ cười độ lượng trước những câu hỏi, những lời chào của lớp lớp đàn cháu gái.
Những chị cán bộ lãnh đạo từng trải, những chị cán bộ gan góc vùng sau lưng địch, những chị cán bộ vùng rẻo cao, trong phút giây đều quên hết nghi thức và tất cả bỗng hồn nhiên, bỗng như trẻ thơ trước mặt Bác.
Bác cháu quây quần tụ họp dưới bóng cây xanh mát rượi của rừng nứa, lúc những đốm nắng cuối xuân đang xao động.
Bác thân thiết hỏi thăm các đại biểu về dự Đại hội. Nam Bộ, Khu V, miền xuôi, miền núi, vùng tự do, vùng tạm bị địch chiếm, chúng tôi có cảm giác Bác đã hiểu tất cả. Tấm lòng những người dân vùng sau lưng địch luôn luôn hướng về kháng chiến, lòng dân vùng rẻo cao, sự hy sinh tận tụy của cán bộ từ cơ sở.
Cảnh sum họp dưới cánh rừng nứa buổi chiều hôm ấy thực sự đầm ấm, đầy tình thương yêu thân thiết của đại gia đình cách mạng. Bác nói chuyện với Đại hội, và rồi Bác cho phép các đại biểu được hỏi Bác, về việc gì cũng được, việc công cũng như việc tư.
Nhiều chị đã mạnh dạn hỏi Bác về những điều các chị chưa hiểu: Chuyện công tác, chuyện gia đình. Hội trường nhiều lần vang lên tiếng cười vui vẻ. Câu trả lời của Bác thường giản dị và đôi lúc dí dỏm.
Rồi chúng tôi được chụp ảnh chung với Bác. Cũng chưa bao giờ chị em lại háo hức đòi chụp ảnh đến thế.
Những đốm nắng trong cánh rừng nhạt dần. Bác sắp ra về. Lòng dạ chúng tôi nao lên. Bao giờ mới lại được gặp Bác lần thứ hai nữa? Kìa, Bác đang sửa soạn ra về, rõ ràng, dứt khoát như khi Bác đến. Hội trường sâu lắng một giây. Tất cả đang hướng lên, về phía Bác. Giọng Bác ấm áp:
"Bác chúc các cô ra về mạnh khỏe. Về địa phương, những chị em nào có thành tích, các cô nhớ gửi báo cáo lên cho Bác".
Những lời căn dặn của Bác vang vọng mãi trong tôi. Tôi suy nghĩ mãi "Chị em nào có thành tích, các cô nhớ gửi báo cáo lên cho Bác". Chị du kích đội Trưng Trắc, bà mẹ chiến sĩ Nam phần Bắc Ninh tôi được gặp những ngày theo bộ đội vào vùng sau lưng địch. "Vâng, thưa Bác, cháu sẽ cố gắng".
Những buổi tối mùa Hạ, dưới ánh đèn nhựa trám, tôi cố gắng viết về những trận đánh giặc bằng đòn gánh, bằng mưu trí của những cô gái từng trồng dâu nuôi tằm ở một làng ven sông Đuống. Tôi viết về lòng yêu nước, thương bộ đội của bà mẹ chỉ quen nghề quay tở, dệt cửi.
Mừng sinh nhật Bác 60 tuổi, tôi gửi thư lên, chúc thọ Bác và mạnh dạn gửi lên Bác những trang viết đầu tiên đó.
Tôi có ngờ đâu Bác cũng đọc những mẩu chuyện nhỏ ấy.
Một buổi sáng tháng 6, tôi vừa đi công tác về, các đồng chí trong cơ quan vui mừng báo tin cho tôi biết: "Có thư Bác gửi". Thư của Bác kèm theo một tấm Huy hiệu. Một tấm hình Bác mà đêm đêm ở rừng sâu Việt Bắc, dưới ánh đèn dầu, tôi thường soi vào lòng bàn tay mình để thấy Bác được rõ hơn, để mình tự nhủ mình phải làm việc tốt hơn, như lời Bác dặn trong thư: "Bác khuyên cháu cố gắng để tiến bộ mãi".
Mùa Hè năm 1951, tôi đi theo một đơn vị quân y phục vụ chiến dịch Hà - Nam - Ninh. Tôi đi với các đoàn dân công, đi tới các đội điều trị. Và tôi viết về các chị dân công làm nhiệm vụ tiếp tế, tải thương, về các bà mẹ hết lòng phục vụ thương binh. Từ cuộc cách mạng, cuộc kháng chiến thành công do Bác cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo, đã nảy sinh biết bao người phụ nữ mới. Những người phụ nữ trung thành và tận tụy. Tôi phải viết về họ, và một lần nữa, tôi gửi lên Bác những mẩu chuyện tôi ghi chép trong chiến dịch.
Một buổi sáng mùa Đông, một món qùa bất ngờ nữa đến với tôi. Bác cho gọi tôi đến. Bác cẩn thận dặn đồng chí Thắng trong đơn vị bảo vệ Bác, nhắc tôi ăn sáng và nắm thêm một nắm cơm ăn dọc đường. Nhưng vì quá mừng tôi chỉ ăn qua quít rồi vội theo anh đi ngay.
Bầu trời xanh của núi rừng Việt Bắc mở rộng trước mắt tôi. Ánh sáng mùa Đông hôm ấy sao ấm thế, cánh rừng sao đẹp thế, dòng suối sao trong thế. Chân tôi đi, đi mãi mà không mỏi. Hết cánh rừng này đến cánh rừng khác, hết dốc cao này đến một dốc cao khác. Chúng tôi đi một mạch không nghỉ, không ăn, không uống và đến chiều thì tới nơi Bác ở.
Tim tôi đập mạnh khi tôi bắt đầu được đặt chân lên con đường hàng ngày từng in dấu chân Bác. Con suối lớn trước cửa nơi nhà Bác ở. Và nhà Bác đây rồi. Thoạt tiên là một gian nhà bếp sáng sủa, sạch sẽ. Lên một khúc nữa là gian nhà nơi Bác ăn cơm, và cũng là phòng nghỉ của đơn vị bảo vệ. Cạnh đó là nhà khách.
Tôi nôn nóng được tới chào Bác, Bác đang làm việc. Mười ngón tay của Bác gõ giòn giã trên bàn máy chữ. Một mảng nắng chiều mùa Đông hắt lên vầng trán cao rộng của Bác, lên bộ quần áo nâu giản dị Bác đang mặc.
Tôi chạy vội lại bàn làm việc của Bác, tôi chào Bác mà hai mi mắt cứ nóng ran cả lên. Bác cười, hỏi tôi đi đường có nhớ mang cơm nắm đi ăn không, đi đường xa có mệt không? Tôi đáp "Thưa Bác, được đến thăm Bác, cháu mừng quá nên không mệt, không đói ạ". Tôi nhìn ngắm mãi ngôi nhà Bác ở, một nếp nhà thực giản dị. Giường Bác nằm nghỉ, cái bàn bên cửa sổ nơi Bác làm việc, mọi vật đều trật tự, ngăn nắp. Tôi nhìn và tôi thấy hầu như không có gì xa cách giữa ngôi nhà của một vị Chủ tịch nước và nhà của các cơ quan.
Bác hỏi tôi chuyện gia đình, chuyện công tác. Bác hỏi thăm một vài chị trong cơ quan tôi, đời sống của chúng tôi. Tôi nói với Bác những ngày chúng tôi đi chiến dịch, chuyện các bà mẹ, các chị em phục vụ chiến trường, các chiến sĩ bị thương. Bác nghe và đột nhiên Bác bảo: "Cô viết còn nhạt lắm". Bác gọi các anh ở Văn phòng lên, bảo các anh xếp chỗ nghỉ cho tôi.
Hôm sau, Bác giao cho tôi một việc: Đọc những số báo Bác đưa cho, báo Nhân đạo, báo Vì một nền hòa bình lâu dài, lấy ở trong đó những mẩu chuyện, những tin tức mình đang cần, ví dụ: Mẩu chuyện phản đối chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, tố cáo chế độ tư bản, đế quốc....
Bác lại hỏi tôi về những bài viết của C.B. đăng trong báo Nhân dân. Tôi thưa với Bác về cách viết của C.B. Bác gật đầu. Bác bảo: "Bây giờ cô cũng viết như thế cho Bác xem". Ở Văn phòng Bác, buổi sáng tôi đọc báo đến khoảng 10 giờ. Chiều và tối, cũng đọc báo, đọc những mẩu chuyện đánh máy bằng tiếng Pháp Bác đưa cho, toàn là chuyện đánh Pháp cả. Tôi nhớ nhất là chuyện "Chị Ba vườn chuối". Chị Ba đã chặt hết cây chuối trong vườn nhà để giúp bộ đội vượt sông. Giặc Pháp đến, tra hỏi chị, chị một mực không khai và chị đã hi sinh anh dũng ngay trong vườn chuối nhà chị. Trong thời gian ba ngày, tôi lượm nhặt tin tức và viết được năm bài báo ngắn gửi lên Bác.
Những bài viết của tôi năm ấy được Bác giữ lại, mỗi bài có đính theo bản góp ý chung cho cả bài, lại nêu từng câu, từng ý, câu này viết chưa ổn nên viết thế nào, vì sao phải viết như thế... Những bài báo ấy đến nay tôi vẫn còn nâng niu gìn giữ.
Tháng 5-1961, Bác đến thăm Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quân. Khi Bác ra về, tôi còn đứng trông theo Bác mãi.... Xe Bác đã chuyển bánh, bỗng Bác ra hiệu cho đồng chí lái xe dừng lại. Và Bác vẫy gọi tôi đến. Sung sướng, cảm động, tôi chạy vội tới chào Bác. Bác hỏi tôi về đời sống gia đình, về công tác. Khi biết tôi vẫn viết báo, Bác gật đầu cười vui vẻ.
Mỗi lần tới thăm Đại hội các nhà báo, Bác đều gọi các cháu gái viết báo lên ngồi hàng ghế đầu. Bác kể chuyện những năm Bác làm báo cho chúng tôi nghe.
Bác thường căn dặn chúng tôi phải viết cho hay, cho chân thực, cho sinh động, cho hùng hồn về những con người mới của thời đại ta, chế độ ta. Chúng tôi chưa làm được như Bác mong muốn.
Tình thương của Bác vẫn dẫn dắt chúng tôi vượt qua bao trở ngại mãi mãi tôi không bao giờ quên được.
(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975).
Niềm vinh dự lớn (Nguyễn Thị Khương kể)
Tại Đại hội anh hùng chiến sỹ thi đua toàn miền Bắc năm 1958, tôi được bầu là Anh hùng lao động, được Chính phủ và Quốc hội tặng Huân chương Lao động hạng Nhất và được gặp Bác Hồ. Hôm ấy, Bác đến, cả hội trường rộn lên vui mừng rồi lặng đi trong xúc động. Tôi không biết dùng lời nào để nói hết được tình cảm của tôi lúc ấy.
Thấy Bác hồng hào, khỏe mạnh, tôi mừng lắm. Giờ giải lao, đôi chân tôi như cái máy tự động đi lại chỗ bậc lên xuống, thầm nghĩ cứ đón Bác ở đây thế nào cũng được gặp. Quả nhiên, Bác đang nhẹ nhàng bước xuống gần tôi. Tôi cúi mặt không cho Bác thấy giọt nước mắt sung sướng cứ tự nhiên trào ra. Bác đã nhìn thấy tôi. Tôi nghe rất rõ tiếng Bác gọi: "A! Cô Khương", rồi Bác chìa tay bắt tay tôi và bảo tôi đi ra uống nước. Hai Bác cháu cùng ngồi và ăn chuối, uống nước, Bác hỏi chuyện:
- Cô có khỏe không?
- Dạ thưa Bác, cháu khỏe lắm ạ.
- Cô có mấy cháu rồi? Các cháu có ngoan không?
- Dạ thưa Bác, cháu có một con. Nó rất ngoan ạ.
Bác căn dặn:
- Xã của cô khá lắm. Cô về cố gắng cùng các đồng chí ở xã thúc đẩy phong trào tiến lên, đã tốt rồi thì làm tốt hơn nữa. Các cô, các chú được bầu là Anh hùng, Chiến sĩ rồi phải phát huy vai trò đầu tàu gương mẫu, không được tự kiêu, tự mãn. Nói phải làm và làm phải nói như cô là rất tốt. Nói không làm là nói suông, làm không nói là tự bó mình lại, làm thay quần chúng, không phát huy được vai trò đầu tàu.
Sau Hội nghị, Bác chụp ảnh chung với các Anh hùng, Chiến sĩ. Nhìn thấy tôi, Bác chìa tay vẫy:
- Còn cô Khương nữa, lại gần đây!
Tôi len tới, Bác cho tôi ngồi cạnh Bác. Chụp ảnh xong, Bác cho cả chúng tôi về nơi Bác ở dự buổi họp mặt liên hoan. Bác hỏi tôi:
- Cô ở Hòa Bình về đây dự Hội nghị có vui không? về, cô định thực hiện thế nào?
- Dạ thưa Bác, cháu vui và phấn khởi lắm, lòng dạ sáng ra nhiều, nhiều cái hay cái tốt quá nhưng cháu không tiếp thu được hết, chỉ nhớ những cái địa phương cháu có thể vận dụng được thôi, như: Ngâm giống ba sôi hai lạnh và làm xe giải phóng đôi vai...
Bác gật đầu, cười, nói:
- Cô cứ làm được từng đấy việc là tốt rồi.
Đoàn chúng tôi được sang thăm đất nước Trung Quốc. Trong thời gian ở Trung Quốc, chúng tôi đã được các đồng chí bạn đón tiếp nồng nhiệt và cho đi tham quan mười tỉnh. Tôi đã thất rất nhiều điều mới lạ, bổ ích. Trở về Hà Nội, chúng tôi lại được Bác cho gặp. Bác hỏi:
- Các cô các chú đi tham quan nước bạn có vui thích không? Mắt thấy tai nghe những điều tốt đẹp như thế nào?
Đồng chí Hồng Tiến, Trưởng đoàn đứng lên định báo cáo tình hình, nhưng Bác vẫy tay ra hiệu ngồi xuống.
- Chú thì chú biết rồi, Bác hỏi các cô các chú khác kia. - Nhìn thấy tôi Bác hỏi luôn:
- Cô Khương thấy thế nào, về địa phương có áp dụng được không?
- Dạ thưa Bác, cháu được Đảng, Chính phủ và Bác cho đi thăm nước bạn, lòng cháu vui lắm. Thành tích, kinh nghiệm của nước bạn có nhiều nhưng nhận thức của cháu có hạn.
Bác gật đầu:
- Cháu đi như thế là có kết quả tốt. Thành tích, kinh nghiệm của nước bạn có nhiều, thấy thành tích để ta tin tưởng, thấy kinh nghiệm để ta học tập, vận dụng nhưng không áp dụng máy móc, rập khuân tất cả kinh nghiệm của nước bạn vào hoàn cảnh của ta.
Muốn tiến kịp nước bạn, ta không nóng vội nhưng phải cố gắng nhiều. Các cháu là những người tiên tiến phải nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần tự lực cánh sinh, phát huy vai trò đầu tàu của mình hơn nữa.
Tôi ngồi ngắm nhìn mái tóc bạc phơ của Bác, kẹo bánh trước mắt còn nguyên không ăn cũng thấy ngon rồi. Thấy tôi không ăn, Bác đến gần hỏi:
- Sao cô Khương không ăn bánh kẹo?
- Dạ thưa Bác, cháu vui mừng quá....
Bác nói:
- Cô ăn đi, và có cháu nhỏ, lấy phần về cho cháu. - Bác gói kẹo thân mật đưa cho tôi:
- Cô đem về cho cháu, quà của Bác đấy.
Ra về, tôi chỉ muốn đi nhanh đem gói quà của Bác cho đứa con đầu lòng ở nhà và các cháu khác nữa. Anh em đi cùng thấy tôi có hân hạnh được Bác cho quà, ai cũng vui mừng. Tôi đã chia cho mỗi người vài cái. Chiếc kẹo của Bác đã thành món quà quý nhất đem về quê hương, ai cũng nâng niu, lòng vô cùng sung sướng. Còn một ít, tôi gói kỹ đem về cho con. Thấy tôi đi lâu về, con tôi vừa mừng vừa hờn dỗi, quay mặt đi khóc không cho tôi bế. Tôi nựng cháu: "Mẹ thương, mẹ nhớ con ngoan, con quý. Bác Hồ gửi kẹo cho con đây này!".
Đôi mắt cháu giương lên tròn xoe, vừa nũng nịu, vừa hớn hở vui mừng. Tôi đoán nó vui mừng vì lâu ngày không gặp lại tôi và vui mừng vì được Bác Hồ cho kẹo. Nó ăn một chiếc còn để dành, gặp ai nó cũng khoe "Bác Hồ cho kẹo".
Cho tới nay, tôi đã vinh dự được gặp Bác nhiều lần và mỗi lần gặp Bác, tôi vẫn có cảm tưởng như vừa được gặp Bác lần đầu, bùi ngùi xúc động không nói lên lời.
(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1975).
Vinh hạnh lớn lao nhất của đời tôi (Lê Thị Hảo kể)
Là một đứa con của "miền Nam đi trước về sau", tôi có một lần được tiếp kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vinh hạnh lớn lao nhất của cả một đời người đã đến với tôi.
Hôm đó một số anh chị em chúng tôi đại diện cho Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình thành phố Huế được vào thăm Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại ngôi nhà đơn sơ của Thủ tướng cách Phủ Chủ tịch không xa.
Thủ tướng tiếp chúng tôi độ 15 phút thì Bác Hồ đến. Bác thật giản dị, nhẹ nhàng và tâm hồn chúng tôi ngập tràn một niềm vui lâng lâng tỏa ngát.
Bác đến! Điều thật lạ là tôi không ngỡ ngàng mà lại cảm thấy ngay một cái gì rất gần gũi, thân thương, rất quen thuộc với ánh mắt và nụ cười đầu tiên của Bác. Bác đã nhìn và đã cười với chúng tôi, những đứa con mới ở xa về, và tâm hồn chúng tôi lung linh ánh sáng như được Bác trao truyền.
Ở Bác tỏa ra một sự tươi tắn, mát mẻ, một niềm vui thường xuyên và một tình thương rộng lớn. Tôi hiểu rằng Bác thương yêu và Bác vui thích gặp những đứa con của miền Nam, nơi luôn luôn ở trong tim của Bác. Tôi lặng nhìn chòm râu bạc, đôi mắt sáng, nụ cười tươi mát đang hấp dẫn tôi đến mức tôi thật sự không còn để ý đến sự có mặt của những người chung quanh.
Bác bắt tay anh chị em chúng tôi rồi vui vẻ chỉ ghế mời chúng tôi ngồi. Bác hồn nhiên, cởi mở, chủ động và gần gũi với tất cả đàn con đang quây quần chung quanh Người. Vào câu chuyện, Bác nói lên một câu nói trang trọng đầy tình nghĩa. Nhìn Thủ tướng Phạm Văn Đồng rồi nhìn sang chúng tôi khắp lượt, Bác nói, giọng chậm rãi, ôn tồn, ấm áp:
- Hôm nay tôi và đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt 20 triệu đồng bào miền Bắc hoan nghênh các cô các chú trong Liên minh ra thăm miền Bắc.
Bác lần lượt hỏi thăm sức khỏe mỗi người chúng tôi. Người hỏi về chuyến đi từ trong vùng giải phóng miền Nam ra đến miền Bắc có an toàn không? Đi bằng phương tiện gì? Đường sá như thế nào? Ăn uống ra làm sao? Bác lại hỏi gia đình của mỗi chúng tôi hiện ở đâu? Có được an toàn không? Sinh sống làm ăn thế nào? Bác hỏi rất tỉ mỉ, rất thân tình. Chúng tôi không dám nói nhiều về bản thân nhưng khi nghe chúng tôi trả lời ngắn, Bác lại hỏi thêm một số chi tiết cho đầy đủ. Thấy tôi đeo kính cận thị Bác hỏi kính nặng mấy điốp. Rõ ràng là Người có sự quan tâm rất mực của một người cha hiền.
Bác hỏi chúng tôi rất kỹ về tình hình vùng giải phóng, vùng đô thị bị tạm chiếm. Nghe kể về Huế, Bác rất chăm chú, thỉnh thoảng Bác gợi lại vài kỷ niệm của thời thơ ấu, nhắc tới những nơi Bác đã từng sống qua: Trường Quốc học, thành nội, chợ Xép, quán Ao Hồ, cầu Tràng Tiền.... Bác hỏi ở Huế có những chén chè nho nhỏ để trên cái trẹt bán mỗi chén một tiền còn hay không? Bác nhắc tới tên vài đường phố cũ ở Huế nà thuở nhỏ Bác đi học ở đây thường qua lại. Trí nhớ của Bác thật dồi dào, Bác hồ hởi nhắc lạo tuổi trẻ của mình bên bờ sông Hương. Giọng Bác thực sự xúc động khi hỏi sông Hương hiện nay còn đẹp không? Đồng bào mình dưới ách Mỹ ngụy khổ đến mức nào? Câu nói dạt dào tình thương vô hạn đối với đồng bào miền Nam và gợi lên trong lòng chúng tôi một nỗi xốn sang căm thù da diết kẻ thù cướp nước và bán nước. Miền Nam! Miền Nam còn chưa giải phóng. Chúng tôi xót xa nghĩ tới miền Nam khi đang được ngồi dưới bầu trời miền Bắc, bên cạnh Cha già, hiện thân vĩ đại của độc lập, tự do.
Bác nói bằng lời văn giản dị, nôm na, ngắn gọn, cô đúc mà chúng tôi thấy thật là mới mẻ, nhẹ nhàng. Ở vùng tạm bị chiếm miền Nam, cả đến ngôn ngữ cũng bị vẩn đục, lai căng pha tạp. Những lời nói của Bác đối với tôi là cả một bài học lớn về tiếng nói, cách nói, cách dùng từ. Ngôn ngữ của Bác giàu hình tượng, sinh động như trong ca dao tục ngữ. Bác dùng chữ, đặt câu rất giản dị và chuẩn xác. Nếu có ai trong chúng tôi dùng chữ chưa được chuẩn, sử dụng từ Hán Việt nặng nề, phức tạp, không cần thiết thì Bác nhẹ nhàng vui vẻ chữa lại cho chúng tôi.
Qua cuộc nói chuyện, Bác đánh giá cao những hy sinh gian khổ, những sự tích anh hùng của đồngbào ta ở hai miền với một tấm lòng ưu ái đặc biệt dành cho miền Nam tiền tuyến đầu sóng ngọn gió. Bác nhắc nhở chúng tôi đức khiêm tốn và ý chí tiếp tục phấn đấu, đừng tự cao, tự mãn, Bác bảo chúng tôi:
- Giỏi thì có giỏi thật đấy nhưng cứ nói gì thì nói chứ đừng vội kết luận rằng dân tộc Việt Nam là nhất thế giới nhé
Mọi người chúng tôi lấy làm vui được nghe Bác truyền cho bài học khiêm tốn, giản dị mà sâu sắc ấy. Ở gần bên Bác, tôi vừa cảm thấy được động viên, cổ vũ khích lệ rất nhiều, đồng thời cũng cảm thấy mình chưa làm được bao nhiêu so với yêu cầu của thực tế và lòng mong muốn của Bác.
Thời gian ở bên cạnh Bác trôi nhanh như một giấc mơ tuyệt đẹp. Ai cũng muốn nó kéo dài mãi mà lại không dám ngồi lâu vì sợ Bác mệt. Đến lúc những đứa con của Bác phải nghĩ đến bảo vệ sức khỏe cho Cha già của mình. Lòng đầy lưu luyến, chúng tôi nhìn nhau với ý định xin Bác cho ra về để Bác nghỉ ngơi.
Bác rất hiểu nỗi lòng chúng tôi lúc này và để tỏ lòng thương yêu của mình, Bác bảo chúng tôi ngồi lại với Bác mười lăm phút nữa. Bác bảo nhỏ vào tai đồng chí cần vụ, vài phút sau đồng chí ấy trở lại với một cái đồng hồ để bàn đã cũ (mà Bác vẫn thường dùng hàng ngày) và một chiếc phong bì lớn. Bác muốn tặng chúng tôi một tấm ảnh lớn để làm kỷ niệm. Trong ảnh, chúng tôi thấy Bác ngồi ở giữa, cười rất tươi, rất hiền, quây quần chung quanh là bảy, tám cháu thiếu nhi miền Nam, có nét mặt ngây thơ nhưng đều là dũng sĩ diệt Mỹ. Tất cả các cháu đều tỏ ra vui sướng được ở gần bên Bác.
Bác Hồ nhìn vào trong ảnh rồi nhìn một chị trong đoàn chúng tôi và nói với một giọng khoan thai đầy xúc động:
- Dân tộc ta đời đời ca ngợi và nhớ ơn những bà mẹ Việt Nam đã sinh ra những anh hùng dũng sĩ như thế này đây.
Chất trữ tình bình dị, hồn hậu mà tha thiết trong những câu nói của Bác làm cho mọi người ứ nước mắt. Bác đã nói lên những chân lý của lịch sử mà cũng là những tình cảm lớn trong lòng chúng tôi.
Bác đã nhắc tới người phụ nữ Việt Nam, nhưng chính bản thân Bác cũng có tấm lòng vĩ đại của người mẹ Việt Nam, suốt đời mình Bác đã hy sinh hạnh phúc gia đình, hạnh phúc cá nhân vì đại nghĩa dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân. Tấm lòng của Bác đối với miền Nam thể hiện qua tình thương của Bác đối với chúng tôi, làm cho tôi cảm thấy nhớ da diết những đồng bào, đồng chí, những người thân còn ở lại trong lòng miền Nam tạm thời bị Mỹ ngụy chiếm đóng. Bác thong thả đứng dậy âu yếm nhìn và chào mọi người rồi chống gậy đi ra. Bác khoan thai từ biệt chúng tôi, đáp lại cái nhìn lưu luyến của chúng tôi bằng một ánh mắt và một nụ cười nâng đỡ, động viên vô cùng ý nhị.
Nghĩ tới Bác, tôi nghĩ tới một vì sao sáng nhất lung linh tỏa ánh giữa bầu trời đầy sao. Vị anh hùng vĩ đại của nhân dân ta đã nhè nhẹ bước vào cõi bất diệt của tự hào dân tộc, nơi mà những vua Hùng, bà Trưng, bà Triệu, những anh hùng Ngô, Lý, Trần, Lê, Quang Trung đã đến trước Người. Cũng trong cõi ấy, chắc Người đã gặp các vĩ nhân của mọi thời đại, những người đã làm nên niềm tự hào của nhân loại.
Bác đã ra đi nhưng tôi đinh ninh Người còn sống mãi, Bác đi vào lòng của hàng triệu triệu người ở đây và khắp nơi.
(Trích từ sách: Bác Hồ với Bình Trị Thiên (tập II), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Ty Văn hóa - Thông tin Bình Thị Thiên, 1978).
Tâm Trang (tổng hợp)
Còn nữa
Lời dặn của Bác (Đinh Thị Kim Thư kể)
Trong Đoàn đại biểu Thủ đô đi dự Đại hội liên hoan Anh hùng, Chiến sỹ thi đua năm 1962, tôi là người nhỏ tuổi nhất.
Bữa đó, bác sỹ Trần Duy Hưng dẫn tôi đến bên Bác và nói:
- Thưa Bác, đây là cháu Thư, kiều bào ở Thái Lan mới về nước, Chiến sỹ thi đua của Hà Nội.
Bác cười rất hiền hậu, trìu mến nhìn tôi, rồi Bác hỏi:
- Cháu về nước bao lâu rồi?
- Thưa Bác, hơn một năm rồi ạ.
Trả lời xong, tôi chăm chăm nhìn Bác.
Bác cười rất vui vẻ, bảo:
- Về nước một năm rồi thì không phải là kiều bào nữa. Rồi Bác ân cần dặn dò:
- Bây giờ về nước, có điều kiện học tập, cháu phải cố gắng tiến bộ nhiều hơn nữa!
Tôi định đáp: "Thưa Bác, cháu xin vâng lới Bác dạy"' nhưng sao tôi hồi hộp nói không ra lời. Vừa lúc ấy, mọi người vòng trong vòng ngoài đến vây lấy Bác. Tôi bàng hoàng như vừa qua một giấc mơ. Vừa ngẩn ngơ luyến tiếc, vừa thấy mình thiếu sót vô cùng vì chưa kịp hứa hẹn với Bác điều gì cả. Trưa hôm đó, tôi nắn nót ghi vào trang đầu quyển sổ tay, tự nhủ là nếu chưa hứa được với Bác thì phải tỏ sự vâng lời Bác bằng hành động cụ thể của mình.
Giờ nghỉ giải lao hôm sau, chúng tôi quấn quýt bên Bác như một đàn cháu với một người ông hiền hậu. Khi nghe được chụp ảnh chung với Bác, mọi người reo lên mừng rỡ.
Chúng tôi bị chen bật ra ngoài.
Bỗng nghe Bác nói:
- Cho các cháu gái vào ngồi đằng trước.
Chúng tôi mừng quýnh túm lấy áo nhau, líu tíu đi vào. Minh, bạn tôi ngồi cạnh Bác, ôm lấy tay Bác, còn tôi ngồi ngay chếch phía sau Bác.
Trở về Tổ quốc, tôi chưa dám mơ được gặp Bác. Thế mà giờ đây tôi đã được ngồi cạnh Bác. Bác dặn riêng tôi là cố gắng tiến bộ nhiều hơn nữa và dặn chung mọi người trong phong trào thi đua, sản xuất, đặc biệt chú ý việc thi đua tập thể. Tổ dệt thảm chúng tôi cũng bắt đầu từ đó được chọn đăng ký phấn đấu thành tổ lao động xã hội chủ nghĩa.Trong đợt thi đua này, nhiều chị em chúng tôi đạt năng suất cao, được tặng danh hiệu Tittốp. Tôi được chọn là đại biểu đi gặp anh hùng vũ trụTittốp sang thăm nước ta, tại Câu lạc bộ quốc tế. Các đồng chí trong tổ chức đã dành cho tôi một vinh dự rất lớn. Tôi được chọn lên cầm bức trướng với Bác Hồ trao tặng Anh hùng Tittốp. Tay tôi cầm một đầu bức trướng mà mắt tôi cứ nhìn vào đầu bên kia, chỗ tay Bác cầm. Giây phút được bước theo Bác mang trướng lên tặng Anh hùng vũ trụ Liên Xô, tôi cảm động đến ứa nước mắt.
Tôi cố bình tĩnh mà bước chân cứ run. Chắc Bác cũng biết sự hồi hộp trong lòng tôi cho nên Bác lại nhìn tôi cười bình thản, giúp tôi ổn định tinh thần. Tôi nhớ đến quang cảnh buổi lễ thì ít, mà xúc động khi được gặp lại Bác thì nhiều. Bác vẫn hồng hào và tươi vui như trước.
(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nhà xuất bản, Phụ nữ, Hà Nội, 1975.)
Bác Hồ về thăm Nhà máy Dệt 8-3 (Lê Thị Nhã kể)
Chiều ngày 8-3-1965, một tin vui đột ngột từ khu tập thể công nhân truyền sang: Bác Hồ đến thăm nhà máy! Bác đã thăm khu tập thể và đang trên đường đến thăm khu sản xuất của nhà máy. Mọi người hò reo, nhanh chóng xếp thành hàng hai bên đường từ cổng chính vào giữa sân nhà máy để đón Bác. Công nhân đang sản xuất tại các phân xưởng được thông báo tiếp tục sản xuất và đón Bác vào thăm phân xưởng.
Đầu tiên chúng tôi đón Bác vào thăm phân xưởng dệt, đi qua những dãy máy chạy rào rào, Bác của chúng ta luôn nở nụ cười hiền từ với chị em công nhân đang tay thoi bám máy nhưng vẫn hướng về Bác kính yêu. Nhiều chị em khác đã vội chạy đến gần Bác và tiếng hô "Bác Hồ muôn năm!" liên tiếp trong phân xưởng. Đi từ phân xưởng dệt, Bác qua phân xưởng sợi. Bác Hồ dừng lại hỏi chuyện chị Đào Thị Thư, một nữ công nhân xuất sắc từng là Chiến sỹ thi đua ở công trường xây dựng nay chuyển qua nhà máy làm công nhân đứng máy sợi, con cũng liên tục là Chiến sỹ thi đua, người công nhân kiểu mẫu đó chiều nay sẽ được vinh dự nhận sự ủy nhiệm của đồng chí Lê Thanh Nghị, lúc ấy là Bộ trưởng Bộ Công nghiệp, cắt băng khánh thành Nhà máy Dệt 8-3.
Khi Bác bước vào phân xưởng nhuộm, in hoa với những cỗ máy đốt long vải, làm bóng, những nồi nấu, những máy tẩy nhuộm liên hợp đồ sộ, được các công nhân nam điều khiển. Bác rất vui lòng khi gặp ở phân xưởng nhuộm nhiều anh chị em từ miền Nam ra tập kết ở miền Bắc, nay được đào tạo thành những công nhân, cán bộ lành nghề sau này sẽ đảm nhiệm công tác khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Phân xưởng đã nhuộm những tấm vài gabađin bền màu cho anh chị em đang học tập, lao động trên các nẻo đường đất nước, nhiều loại màu phục vụ bộ đội, từ bộ binh, hải quân đến bộ đội đặc công. Phân xưởng còn nhuộm vải đen không phai phục vụ chị em nông thôn, lao động và gửi vào miền Nam may những bộ bà ba cho chị em trở về chiến đấu trong chiến trường. Bác Hồ của chúng ta dừng lại xem kỹ các loại vải thành phẩm. Bác rất vui khi thấy loại vải gabađin của nhà máy có thể thay thế được vải kaki ngoại, cũng như các loại vải in hoa và nhuộm màu khác. Bác ân cần dặn dò các cán bộ quản lý phải chú trọng việc thải khí độc, nhắc nhở công nhân mang đủ trang bị bảo hộ để giữ sức khỏe lâu dài...
Sau khi thăm nơi ăn, ở bên khu tập thể và các phân xưởng bên nhà máy, Bác đã nói chuyện với đông đảo công nhân, cán bộ nhà máy. Các chuyên gia Trung quốc đã đến đông đủ và vui mừng được Bác thân mật thăm hỏi.
Trước cuộc mít tinh của toàn nhà máy, Bác Hồ đã ân cần nhắc nhở: "Nhà máy Dệt 8-3 ra đời là thành quả đổ bằng mồ hôi, xương máu của bao chiến sỹ, đồng bào đã ngã xuống trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do, vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nhà máy lại được mang tên ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3, vì vậy mỗi công nhân, cán bộ nhà máy phải làm việc hết sức mình để xứng đáng với niềm vinh dự và trách nhiệm lớn lao đó". Với tình cảm ấm áp, Bác vui vẻ động viên những cố gắng và thành tích bước đầu của công nhân, cán bộ, đồng thời Bác căn dặn anh chị em phát huy tinh thần làm chủ sản xuất tốt, làm ra nhiều sản phẩm có chất lượng, đáp ứng nhu cầu vải mặc cho nhân dân, bộ đội và ra sức tiết kiệm để xây dựng đất nước. Bác ân cần thăm hỏi và cảm ơn chuyên gia Trung Quốc đã không quản ngại khó khăn vất vả giúp đỡ Việt Nam xây dựng nhà máy, đào tạo được đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Bác căn dặn anh chị em cán bộ, công nhân ta phải khiêm tốn, cần cù học tập chuyên gia, học tập kỹ thuật dệt để theo kịp trình độ tiên tiến của ngành dệt thế giới. Bác Hồ nhắc nhở anh chị em phải giữ gìn vệ sinh nơi ăn, ở, xây dựng khu tập thể văn minh và các cán bộ quản lý của nhà máy phải sâu sát để tạo điều kiện cho đời sống công nhân, cán bộ không ngừng được cải thiện và lao động sản xuất của chị em được an toàn, thuận lợi.
Hơn 3.000 công nhân, cán bộ của nhà máy xúc động lắng nghe, ghi nhớ lời chỉ bảo chí tình của Bác. Ai nấy đều thầm hứa luôn phấn đấu để đáp lại sự quan tâm sâu sắc, tình yêu thương bao la của Người.
(Trích từ sách: Bác Hồ với công nghiệp nhẹ, Trung tâm Thông tin kinh tế và Khoa học kỹ thuật công nghiệp nhẹ, tháng 5-1990.)
Hạnh phúc lớn (Tạ Thị Kiều kể)
Một buổi chiều nắng đẹp, đoàn chúng tôi được vào thăm Bác. Tất cả chúng tôi ai nấy đều reo lên vui sướng. Giây phút ấy làm sống lại buổi lên đường ra thăm miền Bắc, các ba má, cô bác, các đồng chí nhìn theo chúng tôi như muốn gửi gắm tất cả tấm lòng của mình đối với Bác, đối với đồng bào miền Bắc thân yêu. Tôi nhớ lại lời dặn của bà con quê hương lúc ra đi: "Nếu được vinh dự gặp Bác Hồ thì phải nhìn thật kỹ, nghe cho thật rõ lời Bác Hồ để về kể lại cho bà con, cô bác thỏa lòng mong nhớ nhé!".
Xe dừng lại trong sân vườn Phủ Chủ tịch. Trống ngực tôi đánh rộn lên trong giây phút chờ đợi gặp Bác.
- Bác! Bác! - Chúng tôi cùng reo lên khi Bác từ trong nhà bước ra. Phút đầu tiên gặp Bác, tôi lặng người bàng hoàng và tưởng như mình đang sống trong giấc mơ tuyệt đẹp.
Tôi cùng với anh hùng Vai quá xúc động chưa kịp tới, anh em trong đoàn đã ráng tự kìm hãm tình cảm của mình, đi chầm chậm, nhường đồng chí Vai và tôi lại gần Bác trước. Đồng chí Vai và tôi cứ ôm chặt lấy Bác mà nghẹn ngào, nức nở. Anh em trong đoàn bấy giờ cũng đến ùa vào quây lấy Bác thành một khối, sáu Bác cháu siết tay nhau không rời. Bác nhìn thật kỹ khuôn mặt từng người và trìu mến hôn lên đầu, lên má chúng tôi. Chúng tôi ai cũng vui sướng, cảm động. Một lát sau, tôi mới bình tĩnh thưa:
- Bác ơi! Chúng cháu nhớ Bác quá. Đồng bào miền Nam nhớ Bác quá!
Bác âu yếm chúng tôi và nói bằng một giọng ấm áp:
- Bác mong các cháu lắm! Bác nhớ đồng bào miền Nam lắm! Kìa sao các cháu lại khóc? Bác cháu ta gặp nhau thì phải vui chứ!
Những lời chan chứa yêu thương ấy của Bác càng làm chúng tôi xúc động, nghẹn ngào hơn. Đồng chí Vai và tôi được hưởng phần hạnh phúc nhất, đứa bên trái đứa bên phải Bác.
Bác cùng chúng tôi đến một dãy bàn đặt ở giữa vườn, đã bày sẵn bánh kẹo, hoa quả, Bác thân mật nói:
- Bây giờ Bác cháu ta ngồi đây nói chuyện. Mời các cháu ăn kẹo.
Bác quay sang tôi và trìu mến hỏi:
- Cháu có khỏe không? Mỗi bữa cháu ăn được mấy chén cơm?
Nghe Bác nói chén cơm tôi hơi thảng thốt vì không ngờ Bác thuộc tiếng gọi của địa phương Nam Bộ. Tôi chậm rãi thưa với Bác:
- Dạ thưa Bác, cháu khỏe. Bình thường mỗi bữa cháu ăn được hai chén. Có hôm mệt cháu ăn được một chén.
Bác cười:
- Cháu ăn ít thế thôi à? Cháu phải ăn khỏe để đánh thắng giặc Mỹ chứ!
Bác chỉ chị Hồ Thị Bi ngồi bên:
- Cô Bi phải trông nom các cô, các chú ấy ăn, ngủ cho tốt nhé!
Chị Hồ Thị Bi đứng dậy:
- Thưa Bác, vâng ạ!
Bác lại nói tiếp:
- Cô Út Tịch có khỏe không?
- Dạ, chị Út vẫn khỏe. Cháu xin thưa với Bác, chị Ba Định, chị Út Tịch và tất cả các cô bác, anh chị trong Mặt trận và bộ đội giải phòng cùng đồng bào quê hương kính chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu.
Bác vui vẻ hỏi:
- Cháu xem Bác có khỏe không nào?
Tôi ngước lên nhìn Bác thưa:
- Dạ được gặp Bác, thấy Bác hồng hào, khỏe mạnh, cháu mừng quá. Ở trong Nam, bà con nghe đài Hà Nội, chỉ mong hoài nghe tiếng Bác nói, nhất là vào Đêm Giao thừa hàng năm, để theo dõi sức khỏe của Bác.
Bác cười:
- Mỗi năm thêm một tuổi Bác cháu ta càng lớn, càng mạnh. Các cô, các chú càng đánh thắng giặc Mỹ, Bác càng mạnh khỏe, sống lâu.
Bác tiếp tục hỏi chuyện từng anh em trong đoàn: Anh Vai, các anh Huỳnh Văn Đảnh, Trần Dưỡng và Lê Chí Nguyện. Bác hỏi tỉ mỉ về tình hình chiến đấu, sản xuất của chiến sỹ và đồng vào, tình hình đời sống của các tầng lớp nhân dân ở vùng giải phóng, vùng tạm bị địch chiếm và cả vùng của đồng bào Thượng nữa.
Hỏi hết lần lượt anh em trong đoàn, Bác vui vẻ nhìn sang tôi:
- Bây giờ cháu Kiều kể chuyện cho Bác nghe nào!
Từ nãy đến giờ tôi vẫn ngồi bên Bác, chăm chú ngắm nhìn Bác, nghe Bác hỏi, tôi vội thưa:
- Dạ thưa Bác, được gặp Bác, cháu mừng quá. Có bao nhiêu chuyện định nói với Bác cháu quên hết.
Bác cười nói:
- Cháu nhớ bao nhiêu thì nói bấy nhiêu.
Tôi báo cáo cáo thêm với Bác về tình hình chị em phụ nữ đấu tranh chính trị và đánh du kích, về những gương các em thiếu nhi ở miền Nam dũng cảm cùng với cô bác đánh giặc, lập nhiều thành tích vẻ vang.
Bác gật đầu tỏ ý rất vui mừng. Bác nói:
- Cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam ta chống giặc Mỹ xâm lược là toàn dân, toàn diện. Trẻ, già, gái, trai đều đánh giặc giỏi, sản xuất giỏi. Đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều giỏi.
Chúng tôi vui sướng được chụp ảnh chung với Bác.
Chụp ảnh vừa xong, đồng chí Huỳnh Văn Đảnh ôm hôn Bác. Anh nói: "Cháu xin hôn Bác, phần của đồng bào và bộ đội giải phóng miền Nam trao nhiệm vụ cho cháu".
Tiếng cười ròn rã lại vang lên trong khu vườn nhà Bác.
Ra về, tôi cứ ngẫm nghĩ lời Bác dạy: "Các cô, các chú đánh thắng giặc Mỹ, Bác càng khỏe mạnh". Lời Bác cứ thấm sâu vào tim óc tôi. Quả vậy, muốn rút ngắn đường dài thì phải đi nhanh; muốn Bắc Nam mau sum họp một nhà, muốn được đón Bác Hồ thì chỉ một con đường là đánh thật mạnh để mau chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
Chiều mồng 2 - 12 - 1965, Bác cho chúng tôi đi cùng với Bác và Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm Đại hội những người xuất sắc phong trào "Ba đảm đang" của phụ nữa Thủ đô.
Bác đến! Bác đến! Tiếng hoan hô và tiếng vỗ tay vang lên như sấm.
Tôi theo chân Bác lên phía Đoàn Chủ tịch của Đại hội. Bác vui vẻ nói với các đại biểu:
- Hôm nay, Bác dẫn cô bé này đến thăm Đại hội. Các cô có biết cô bé này là ai không?
Tiếng reo hò mừng rỡ được gặp Bác vẫn vang dậy. Mọi người chưa kịp trả lời thì Bác đã giới thiệu tóm tắt về thành tích của tôi.
Những lời nói thân mật của Bác làm cho tôi vừa cười vừa ứa nước mắt.
Bác tiếp tục nói chuyện với Đại hội. Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác khen phụ nữ Thủ đô đã đạt được những kết quả tốt trên các mặt sản xuất, công tác, phục vụ chiến đấu trong phong trào thi đua "Ba đảm đang".
Bác thân mật tự tay trao Huy hiệu của Người cho bảy chị em có nhiều thành tích xuất sắc, và hỏi các đại biểu:
- Có cô nào muốn Bác thưởng Huy hiệu nữa không?
Tất cả đều giơ tay lên một loạt và phấn khởi đáp vang:
- Thưa Bác, có ạ!
Bác cười và bảo:
- Bác sẵn sàng thưởng Huy hiệu cho các cô, nhưng các cô phải làm tốt hơn nữa phong trào "Ba đảm đang".
Bác kể cho Đại hội nghe những gương chị em phụ nữ hoạt động đầy hy sinh, gian khổ trong thời kỳ bí mật và một vài nét về thành tích rực rỡ của phụ nữ miền Nam đánh thắng giặc Mỹ và xây dựng Khu Giải phòng.
Xong Bác dịu dàng hỏi Đại hội:
- Phụ nữ miền Nam rất anh dũng, rất đảm đang, vậy phụ nữ miền Bắc có sẵn sàng thi đua với phụ nữ miền Nam không?
Cả hội trường vang dậy lời đáp sôi nổi đầy khí thế:
- Thưa Bác, có ạ!
Lời phát biểu của Bác:
- ... Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng, thanh niên Việt Nam là thanh niên anh hùng, phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng. Hai nghìn năm trước đây, ta có các nữ anh hùng: Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong kháng chiến chống Pháp trước kia và trong kháng chiến chống Mỹ ngày nay, ta cũng có nhiều anh hùng là phụ nữ. Trên thế giới chưa có nơi đâu phụ nữ làm Phó Tổng Tư lệnh như ở miền Nam nước ta. Thi đua với phụ nữ miền Nam là đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh. Khó khăn đến mấy chúng ta cũng vượt qua được và nhất định chúng ta sẽ đánh thắng giặc Mỹ xâm lược...
Chúng tôi ghi lòng tạc dạ những lời dạy bảo quý báu, sâu sắc của Bác.
(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nhà xuất bản. Phụ nữ, Hà Nội, 1975.)
Tâm Trang (Tổng hợp)
Một sáng Tháng Năm
(Nguyễn Thị Minh Châu và Phan Thị Quyên kể)
Bác bỗng hiện ra trước khung cửa, Phan Thị Quyên và tôi chạy ùa tới ôm chầm lấy Bác mừng vui không thốt nên lời.
Chan chứa yêu thương, Bác vuốt tóc chúng tôi và nói:
- Hai cháu có khỏe không?
- Dạ, chúng cháu khỏe lắm!
- Anh chị em cùng ra với các cháu có khỏe không?
Nhớ lời đồng chí cán bộ dặn đừng khóc, chúng tôi cố ngăn nước mắt nhưng không sao ngăn được. Giọng Bác ấm áp làm sao!
Sung sướng, vui mừng, kính yêu Bác quá! Chúng tôi lau nhanh nước mắt rồi thưa:
- Bác ơi, đồng bào miền Nam nhớ Bác lắm. Biết chúng cháu ra đây ai cũng gửi lời kính chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu để vô Nam cho đồng bào thỏa dạ nhớ mong...
Vừa lúc ấy, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến. Bác vui vẻ bảo:
- Hai cháu chào chú Đồng đi.
Chúng tôi quay lại trân trọng chào Thủ tướng, rồi theo Bác và Thủ tướng vào phòng. Hôm ấy, Bác cho hai chúng tôi ăn cơm với Bác. Quyên đi bên trái. Tôi đi bên phải Bác. Đến trước bình hoa, Bác lấy hai cành hoa cho chúng tôi mỗi đứa một cành. Thật là xúc động!
Ngồi vào bàn ăn, Bác hỏi chúng tôi rất nhiều chuyện về miền Nam. Giọng Bác như dòng nước ngọt quê hương. Chúng tôi lắng nghe như nuốt từng lời. Lời nói của Bác ấm áp và đầy tình cảm thương yêu đồng bào, gần gũi quần chúng, càng làm cho chúng tôi sống những giờ phút bên Bác rất thoải mái, mỗi lời nói của Bác giúp chúng tôi thêm sức mạnh.
Bác hỏi thăm tin tức gia đình Quyên, gia đình tôi, hỏi thăm anh Lê Hồng Tư, Tiểu đội Lê Quang Vịnh, chị Võ Thị Thắng. Bác chú ý nhiều đến phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn và các thành thị ở miền Nam.
Bác múc canh và gắp thức ăn cho chúng tôi. Bữa cơm chúng tôi được cùng ăn với Bác và Thủ tướng giản dị và đầy không khí gia đình thân mật, đầm ấm. Bác quay sang hỏi tôi:
- Mỗi bữa cháu ăn được mấy chén?
- Dạ, thưa Bác, bình thường cháu ăn được hai chén.
Bác cười, chỉ vào cái chén của Bác lớn hơn chén của chúng tôi đang ăn và nói:
- Các cháu là thanh niên phải ăn khỏe để đánh thắng giặc Mỹ chứ!
Bác nói tiếp:
- Chiến sỹ, đồng bào và cán bộ trong đó đánh giặc rất giỏi, nhưng ăn mặc có đủ không?
- Thưa Bác, nhờ bảo đảm được sản xuất tự túc và cải thiện đời sống cho nên ăn mặc cũng đủ, đồng bào ít khi bị đói. Bộ đội vừa đánh giặc vừa tăng gia, sản xuất tự túc được ít nhiều. Những vùng miền Đông, Khu 6, Khu 10 trước kia có lúc đói lắm, bây giờ tình hình đã khá hơn. Từ Trường Sơn đến mũi Cà Mau, cán bộ hay bộ đội đi công tác dọc đường không đói nhờ có khoai, mì trồng khắp nơi, ai dừng chân ở đâu thì trồng ở đó, người đến trước trồng người đến sau ăn. Bác và Thủ tướng cười và khen việc làm đó rất tốt.
Bác hỏi tỉ mỉ về tình hình công tác và học tập của cán bộ, của các cháu gái và các cháu thiếu nhi.
Chúng tôi biết chừng nào thưa Bác chừng ấy. Có những việc chúng tôi chỉ được nghe kể lại, chúng tôi cũng thưa hết với Bác như những đứa con lâu mới được về thăm nhà.
Chúng tôi kể để Bác nghe chuyện chị em phụ nữa đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang và phục vụ chiến đấu. Chị em thanh niên xung phong đã kề vai làm cầu cho bộ đội vượt sông kịp mở trận đánh vào thành Sài Gòn trong đợt Tổng tiến công đầu xuân Mậu Thân 1968. Chúng tôi kể tiếp về phong trào học sinh, sinh viên miền Nam, trong đó có sinh viên Sài Gòn.
Được gần Bác, gần Thủ tướng trong một bầu không khí thân mật, ấm cúng, được nghe những lới nói đầy yêu thương của Bác, chúng tôi cảm thấy như bao nhiêu năm xa cách, hôm nay được trở lại gặp người ông, người cha thân yêu nhất của gia đình. Chưa bao giờ chúng tôi nghĩ mình sẽ có những giờ hạnh phúc như hôm nay. Thủ tướng rất thông cảm với nỗi vui mừng của chúng tôi được gặp Bác nên cứ để chúng tôi thưa chuyện với Bác, chỉ trìu mến nhìn và nghe chúng tôi nói.
Chúng tôi mải thưa chuyện mà quên ăn, Bác phải nhắc:
- Hai cháu ăn đi chứ. - Bác lại gắp thức ăn cho chúng tôi và bảo:
- Cháu Châu còn xanh quá, phải cố gắng ăn cho chóng khỏe.
Trước sự săn sóc ân cần của Bác, tôi không thể không nhớ lại những lúc trong tù, gian khổ đấu tranh với kẻ thù, chúng tôi động viên nhau nhớ hình ảnh Bác để giữ khí tiết. Đồng chí Cao Hoài Đông, khi bị giặc đốt cháy nám cả tay chân vẫn không khai báo. Bản thân tôi, có lần bị quân thù tra tấn tàn ác, tôi tưởng không thể nào sống được, bao đau đớn uất hờn nghẹn dâng tận cổ, giặc cứ mãi khảo tra, đầu óc tôi quay cuồng ê ẩm. Trong giây phút đó, Bác đã xuất hiện trước mắt tôi, Bác vừa rất cương nghị, vừa rất hiền hậu, và như nói với tôi: "Dũng cảm lên con! Các con là những người chiến thắng".
Cho đến khi được thật sự ngồi bên Bác, càng nhìn Bác, chúng tôi càng nhớ đến các đồng chí ở trong Nam luôn luôn hướng về Bác để có thêm sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Bỗng nghe thấy tiếng đáp của Quyên, tôi ngước lên nhìn Bác, nước mắt rưng rưng. Quyên cũng lấy khăn tay lau nước mắt. Chắc Quyên nghĩ nhiều về anh Trỗi. Anh có biết đâu giờ phút này Quyên đang ngồi bên Bác Hồ, người mà anh vô cùng kính yêu. Phút cuối cùng của đời mình, anh đã hô nhiều lần tên Bác.
Những lúc tâm tình với tôi, Quyên nhớ lại rất rõ, nhiều lần kể chuyện cho Quyên nghe, anh Trỗi đã hứa hẹn hoài: "Bao giờ ra được ngoài Bắc, thế nào anh và em cũng tới chỗ Bác ở, chờ trông thấy Bác. Chúng mình ao ước được gặp Bác quá". Anh xót xa: "Do bọn giặc Mỹ và tay sai phá hoại thống nhất nước nhà cho nên đồng bào miền Nam ta chưa được rước Bác vô thăm".
Bữa cơm dù lâu mấy cũng phải xong. Tôi cứ tiếc không còn được ngồi mãi bên Bác. Đang mải nghĩ như vậy, tôi giật mình khi nghe Bác bảo tôi xẻ chiếc bánh ngọt, chia đều mỗi người một phần. Tôi cắt bánh, đặt miếng bánh vào đĩa mời Bác, Bác lại xắn miếng bánh ấy làm hai, Bác chỉ ăn một nửa, còn thì chia thêm cho hai chị em chúng tôi. Tôi nhận thêm miếng bánh Bác cho, bồi hồi ứa nước mắt.
Những lúc Quyên thưa chuyện với Bác, tôi có dịp nhìn Bác thật kỹ, nghe Bác nói thật nhiều.
Nhớ lại những lúc hoạt động trong vùng địch, khi nghe tiếng Bác nói trên đài, đọc lời kêu gọi của Bác, chúng tôi như thấy có ngọn đèn soi sáng bước đường mình đi.
Hôm nay, được ngồi bên Bác, được ngắm vầng trán bao la, đôi mắt sáng ngời, nụ cười hiền hậu, Bác vô cùng cao cả, Bác giản dị và thân thiết vô cùng!
Thời gian trôi đi nhanh quá! Đã đến lúc chúng tôi phải chào Bác để Bác về nghỉ. Như một người ông đối với những đứa cháu nhỏ từ xa về, Bác dắt tay chúng tôi ra cửa. Bác căn dặn thêm chúng tôi phải hết sức khiêm tốn, chú ý giữ gìn sức khỏe, cố gắng công tác và học tập tốt...
(Trích từ sách: Nước non bừng sáng, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1975.)
Những nhiềm vinh hạnh (Trần Thị Bưởi kể)
Lớn lên, sống xa Thủ đô, xa Trung ương, chưa được gặp Bác Hồ nhưng Bác vẫn là người ông mà những đứa cháu chúng tôi được nghe kể nhiều nhất, nhiều hơn cả ông nội trong nhà. Lòng kính yêu của chúng tôi đối với Bác dường như không bắt đầu từ một sự tác động nào. Nó là những tình cảm dĩ nhiên mà mỗi đứa bé Việt Nam sinh ra và lớn lên đều có. Bởi vậy được gặp Bác Hồ là một niềm ao ước tha thiết đối với đời tôi. Những năm ấy tôi chỉ thỉnh thoảng được nhìn ảnh Bác, được nghe tiếng Bác nói trên đài....
Sau mùa Xuân năm 1968, bỗng tôi được lệnh trên cử đi công tác nước ngoài. Lần đó tôi được làm đại biểu trong Đoàn Thanh niên giải phóng miền Nam đi dự Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới lần thứ chín ở Xôphia. Chuyến đi này đối với tôi là một bài học lớn: Được đi ra nước ngoài, tiếp xúc với bạn bè năm châu bốn biển chúng tôi mới càng thấy hết uy tín to lớn của Bác Hồ và càng thấy hết vinh dự một người dân của nước Việt Nam.
Sau Đại hội, trên đường trở về chiến trường, chúng tôi dừng lại Hà Nội. Ngay sau đó cả đoàn thanh niên được Bác cho gặp. Tôi sung sướng đến ngất ngây. Ước mơ bao năm tháng giờ đã thành sự thật. Trong đoàn chúng tôi có một số anh hùng dũng sỹ và đại biểu đã có lần được gặp Bác, nhưng tất cả đều có một tâm tư như chúng tôi "Mới gặp Bác lần đầu. Chúng tôi ngắm Bác như người bị thôi miên". Tôi nhìn kỹ đôi mắt Bác, đôi mắt của Bác sáng, kiên nghị và lại rất dịu dàng. Câu chuyện tôi được nghe từ bé: Mắt Bác có hai con ngươi đã được khẳng định là không đúng. Nhưng giờ đây tự nhiên tôi tin rằng điều đó là đúng vì tôi chưa gặp mắt ai tinh tường như đôi mắt Bác. Tôi nhìn từng sợi râu của Bác. Râu Bác, tóc Bác bạc trắng óng ánh dưới ánh điện sáng trong như cước. Bác già, nhưng khỏe mạnh và nhanh nhẹn. Hôm ấy, đồng chí Trưởng đoàn Trần Văn Tư báo cáo để Bác nghe về Đại hội. Bác rất vui vẻ, nghe xong Bác nói:
- Có bạn bè thế giới ủng hộ như vậy, các cháu có tin rằng ta nhất định thắng hay không?
- Có ạ. Chúng tôi đồng thanh đáp.
Bác cười vui vẻ:
Đúng! Chúng ta nhất định thắng, miền Nam nhất định được giải phóng.
Hôm đó, Bác cũng dặn chúng tôi: Đừng vì thấy bạn bè thế giới kính nể, tôn trọng mà huênh hoang, tự mãn. Phải khiêm tốn và phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ lớn hơn nữa. Vì có thắng Mỹ lớn thì bạn bè mới càng thương yêu ta nhiều hơn, và như vậy là ta không phụ lòng của bạn bè thế giới.
Được gặp Bác, tôi nghĩ rằng đó là diễm phúc, là niềm vinh dự lớn nhất của đời tôi. Ra về, cả đêm tôi thao thức, mong chóng được trở về chiến trường báo cáo lại với anh em đồng chí và bà con quê nhà để tất cả cùng chung niềm vui to lớn này.
Nhưng, một sự không ngờ đã đến... Sau đó ít lâu, trong khi tôi đang chờ xe trở về chiến trường thì có tin: Bác cho gọi vào gặp.
Niềm vui đột ngột quá, chúng tôi cứ thấy chân tay luống cuống không biết làm gì trước làm gì sau. Hôm ấy Bác cho gọi tôi, chị Trương Thị Khuê, anh hùng các lực lượng vũ trang của tỉnh Vĩnh Linh cũng cùng đi dự Đại hội ở Xôphia về (trong đoàn đại biểu miền Bắc), và chị Nguyễn Thị Xuân, nữ dân quân Quảng Bình, một mình bắn rơi một máy bay phản lực của Mỹ bằng súng bộ binh. Chị Xuân là nữ thanh niên công giáo, chị cũng vừa đi thăm Liên Xô về. Cả ba chúng tôi chuẩn bị áo quần và lên xe vào Phủ Chủ tịch. Chú Vũ Kỳ, Thư ký của Bác đã chờ sẵn. Chúng tôi hỏi ngay chú Kỳ:
- Lúc gặp Bác chúng cháu nên chào theo kiểu nào?
- Các cháu là dân quân, chào theo lối quân sự cũng được.
Chú Kỳ đưa chúng tôi về ngôi nhà nhỏ ở giữa vườn, từ xa tôi đã thoáng nhìn thấy Bác qua cửa sổ. Chúng tôi hồi hộp tiến lên phía cửa và đứng xếp hàng ngang, chú Vũ Kỳ báo cáo với Bác:
- Thưa Bác, ba cháu dân quân gái được Bác cho gọi đã đến.
Bác ngồi đọc báo cạnh chiếc bàn tròn, xung quanh có bốn chiếc ghế mây để trống. Bác ngước nhìn về phía chúng tôi. Ba chị em chúng tôi đứng nghiêm đưa tay lên vành mũ trân trọng chào Bác. Bác như một vị chỉ huy quân sự ra hiệu tiếp nhận sự có mặt của chúng tôi, rồi Bác tươi cười cho phép chúng tôi ngồi vào bàn. Trên bàn có để sẵn kẹo và nước. Hôm ấy, Bác mặc áo trắng ngắn tay, may kiểu ba túi rộng rãi. Bác vẫn mang dép cao su, đôi dép quai to đã mòn gót mà tôi đã nhìn thấy trong lần gặp trước.
Sau khi nghe chú Vũ Kỳ giới thiệu tên tuổi của chúng tôi, Bác bảo chúng tôi ăn kẹo rồi uống nước. Liền lúc đó đồng chí phục vụ bưng lên một đĩa bánh bao, mỗi cái bằng nắm tay. Bác nhấc đĩa bánh bao đưa cho chúng tôi và bảo:
- Các cháu ăn bánh bao đi!
Chúng tôi chưa ăn hết nửa cái bánh thứ nhất, Bác đã cho thêm mỗi người một cái nữa, chúng tôi phải cầm sang tay bên kia. Cả ba chị em vừa ăn vừa tủm tỉm cười nhìn nhau. Thật giống như cảnh ba đứa cháu nhỏ quây quần bên người ông cao tuổi trong những ngày rằm. Bác vừa âu yếm nhìn chúng tôi vừa ăn vừa hỏi chuyện. Bác hỏi tôi về chuyện đánh Mỹ ở Khe Sanh, về đời sống của anh chị em chiến sỹ quân giải phóng. Bác hỏi chị Xuân, chị Khuê về cuộc sống dưới hầm, bám ruộng đồng sản xuất và chiến đấu của bà con Vĩnh Linh, Quảng Bình. Cuối cùng Bác quay về phía tôi và chị Khuê:
- Bây giờ hai cháu kể chuyện Đại hội ở Xôphia cho Bác nghe.
Bằng những mẩu chuyện cụ thể, chúng tôi thưa lại với Bác những tình cảm nồng thắm của bạn bè thế giới ở Đại hội. Nghe tôi kể chuyện về các bạn Italia, Bác cảm động nói:
- Miền Nam đã làm thơm danh Bác với bạn bè thế giới.
Bác giục chúng tôi ăn kẹo và như hiểu được ý muốn của từng đứa cháu nhỏ, Bác lấy giấy gói cho mỗi người một phần. Sau đó, Bác cho ra chụp ảnh chung với Bác. Lúc đó đã 5 giờ chiều, ánh nắng dìu dịu chiếu qua vườn cây cổ thụ càng tôn vẻ đẹp rất trang nhã trong vườn Bác. Bác sửa lại cổ áo và dẫn ba chị em chúng tôi ra chụp ảnh. Trong khi đồng chí nhiếp ảnh chuẩn bị địa điểm, Bác bảo chúng tôi:
- Mỗi cháu hát cho Bác nghe một bài nhé.
Ba chúng tôi nhìn nhau bối rối vì khoản này chúng tôi rất vụng về. Nhưng ngay lúc đó tôi nghĩ rằng: Lúc ở chiến hào mình hát như thế nào, bây giờ hát như thế để Bác nghe, chắc Bác sẽ vui. Tôi mạnh dạn xin Bác:
- Thưa Bác cháu xin hát trước.
Bác cười rất vui:
- Cháu hát bài gì?
- Thưa Bác, cháu hát bài "Tiếng hát trên đường quê hương".
Bác gật đầu. Bỗng Bác đưa tay ra hiệu tôi khoan hát, Bác cho gọi các chú trong cơ quan đang làm việc gần đó lại cùng nghe. Tôi hồi hộp cất giọng hát. Trong bài hát có đoạn "Ai đã tới miền quê em Quảng Trị - Thừa Thiên, qua đường 9 tình Gio Linh lắng trong giọng hò....", Bác khẽ gật đầu theo nhịp điệu của bài hát. Tôi hát xong, Bác cười và đưa ngón tay về phía chị Xuân:
- Cháu Bưởi hát rất tốt, bây giờ cháu Xuân hát bài gì?
Chị Xuân thưa với Bác:
- Cháu xin ngâm một bài thơ về Quảng Bình.
Khi chị Xuân ngâm xong Bác vỗ tay, các cô các chú đứng nghe rồi vỗ tay. Bác quay về phía chị Khuê. Không chờ Bác hỏi, chị Khuê thưa:
- Thưa Bác, cháu xin hò một câu mái nhì do Đội Văn nghệ Vĩnh Thủy quê cháu sáng tác.
- Tốt lắm! Bác gật đầu vừa ý.
Ba chị em chúng tôi hát xong, Bác lại khen:
- Các cháu hát hay lắm. Quay lại phía các chú, Bác nói: "Các cháu gái hát rồi, bây giờ đến lượt các chú hát cho các cháu nghe".
Các chú cười nhìn nhau, Bác nói:
- Hát đi chứ, sao lại cười. Tất cả cùng cười vui vẻ.
Khi chuẩn bị chụp ảnh, Bác hỏi;
- Cháu nào muốn đứng gần Bác?
Chúng tôi sung sướng quá, ai cũng muốn được đứng gần Bác. Bác cười rất độ lượng:
- Cho mỗi cháu đứng gần Bác một lần.
Tôi đứng phía bên trái của Bác, bên kia là hai chị Khuê và Xuân. Bác ân cần nói:
- Cháu Bưởi miền Nam được đứng nguyên chỗ này.
Tôi cảm động quá! Lúc nào Bác cũng nghĩ tới miền Nam, lúc nào Bác cũng dành cho miền Nam phần vinh dự nhất. Trong niềm vui hả hê đó, tôi thấy nước mắt mình muốn trào ra.... Chụp ảnh xong, Bác dẫn chúng tôi đến trước nhà, dưới một gốc cây to có treo một bồn hoa phong lan mới nở trắng ngần và tỏa mùi thơm ngào ngạt. Bác ngắt cho chúng tôi mỗi người một chùm và nói:
- Các cháu về trong ấy nói với bà con mình Bác gửi lời thăm. Chúc bà con chiến đấu, sản xuất giỏi. Riêng ba cháu phải phấn đấu giành nhiều thắng lợi hơn nữa.
Chúng tôi vô cùng cảm động, mỗi người đều hứa với Bác ra về sẽ cố gắng hết sức để thực hiện lời Bác dạy. Bác gật đầu vui vẻ và thư thả chống can bước vào nhà. Chúng tôi tần ngần xúc động... Ba ngày sau, chúng tôi được Bác gọi vào cho xem văn công. Thật là những niềm vinh dự không ngờ. Chúng tôi đến nơi vài phút thì Bác đến, Bác hỏi:
- Các cháu đã được đi tham quan Thủ đô chưa?
- Thưa Bác có ạ.
- Các chú cho các cháu đi thăm những đâu?
Tôi thưa với Bác:
- Dạ! Thưa Bác, các chú bên Tổng cục Chính trị cho chúng cháu đi thăm Viện bảo tàng quân đội, Viện bảo tàng cách mạng và nhiều danh lam thắng cảnh của Hà Nội.
Bác gật đầu vừa ý và hỏi tiếp:
- Các cháu có muốn nói gì với Bác nữa không?
Câu hỏi của Bác làm chúng tôi lúng túng, ba chị em nhìn nhau, biết bao điều muốn thưa với Bác. Nhưng biết nói thế nào để Bác vui. Nói sao cho hết được tình cảm của đồng bào miền Nam đối với Bác.... Bỗng chị Khuê nắm chặt hai bàn tay để trước ngực thưa với Bác:
- Thưa Bác, chúng cháu xin được hôn Bác.
Bác cười.
Trước khi chúng tôi ra về Bác dặn:
- Về trong ấy, các cháu cố gắng chiến đấu giỏi, sản xuất tốt và phấn đấu học tập. Các cháu nhớ nói với bà con trong ấy Bác có lời hỏi thăm.
Chúng tôi ra xe, lòng những lưu luyến vì những phút thiêng liêng bên Bác không còn nữa. Nhưng cũng từ phút ấy chúng tôi thấy mình được thêm sức mạnh và lớn lên rất nhiều. Chú Phạm Văn Đồng đưa chúng tôi ra xe và căn dặn:
- Các cháu về nhớ làm tốt những lời Bác Hồ đã dạy. Nhớ nói với bà con thôn xóm chú gửi lời thăm.
(Trích từ sách: Miền Nam trong lòng Bác,
Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1975.)
Hết
Tâm Trang (tổng hợp)